Người đăng: KennyNguyen
Tại sao Hoàng Diệu Soái tướng lại vui mừng đến thất thố như vậy trước mặt các
sĩ quan tại hội nghị quân sự? Tại sai các chúng sĩ quan Đại Nam có mặt nơi này
không hề có ý kiến gì về sự thất thố đó, bên cạnh đấy họ lại cũng vui mừng
không dứt mà hò reo sau khi sứ tín của Huế kinh thành truyền tin. Đó là bởi vì
quân Đại Nam đang rơi vào tình thế cực kì khó khăn, gian khổ.
Tại sao lại nói quân Đại Nam tại Nam Kỳ khó khăn, không phải họ dùng du kích
chiến chiếm được quyền khống chế ngoại ô Gia Định, Chợ lớn sao. Nếu nói họ khó
khăn chẳng phải qua vô lý ư,? Thật ra chỉ sống trong chăn mới biết chăn có
rận. Phải tham chiến thực sự thì mới biết được quân Đại Nam cũng chẳng khá
khẩm hơn quân Pháp là bao. Nói quân Pháp co rúc trong công sự cũng như thành
Gia Định hay Đại đồn Chí Hòa mà chúng chiếm đóng là không sai. Nhưng quân Đại
Nam cũng có khốn khó không thôi. Cộng tất cả binh sĩ có trang bị hiện đại của
Đại Nam lại thì cũng chỉ có 6 ngàn người ( có thêm gần 1000 súng trường Minire
thu được sau trận Trấn Biên). Nhưng số lượng này so với quân Pháp chỉ là ngang
ngửa mà thôi. Những binh sĩ còn lại mang đao kiếm thực tế không có nhiều tác
dụng trong kiểu chiến đấu này. Cho cù có dũng cảm bao nhiêu con người cũng là
máu xương, họ phải có sự sợ hãi. Cầm đao kiếm mà chiến đấu với súng ống là
khảo nghiệm quá sức chịu đựng của thần kinh của những người bình thường.
Chỉ có sáu ngàn binh để phân bố ra cản trở quân Pháp được hỗ trợ bởi chiến hạm
hiện đại luôn lăm le đổ bộ tại Trấn Biên cũng như Bà Rịa là một khảo nghiệm
quá nặng nề. Thêm vào đó Hoàng Diệu phải phân một số lượng binh sĩ nhất định
thâm nhập ngoại ô Gia Định diu trì du kích chiến. Quân đội Pháp tuy không có
đủ binh lực để càn quét diện rộng, nhưng chúng không phải là những kẻ ngồi
không.
Trên thực tế thì thiếu tướng Louis tổng tư lệnh Pháp tại Nam Kỳ đã tìm các
phương án để đáp trả quân Đại Nam. Ông ta cho các Trung hạm cũng như đại Hạm
phong tỏa hoàn toàn vịnh Gành Rái. Những tiểu chiến hạm thì tuần tiễu liên tục
bên bờ sông Đồng Nại và không tiếc pháo để nã đạn vào các mục tiêu nghi ngờ,
kể cả là dân thường cơ sở cũng thành mục tiêu. Tiếp theo là kế hoạch tấn công
mạnh Bà Rịa kiến Đại Nam không thể không phân binh chống đỡ. Trong khi đó với
sự cơ động vì đã khống chế đường thủy thì quân Pháp luôn luôn có khả năng
nhanh chóng thay đổi mục tiêu từ Bà Rịa thành Trấn Biên. Quân Đại Nam không
thể di chuyển theo kịp bước tiến của quan Pháp do đó nguy cơ rõ ràng là rất
lớn. Các biện pháp trả thù du kích chiến của quân Pháp cũng được vạch rõ, mỗi
lính Pháp bị thương vong do lính bắn tỉa thì họ sẽ giết mười hoặc nhiều hơn số
dân thường. Nếu vài người lính Pháp chết thì họ có thể xua quân mà giết cả
làng tình nghi ở các vùng ngoại ô Gia Định. Hành động điên cuồng này khiến
Hoàng Diệu buộc phải ban bố lệnh sơ tán cho dân chúng ngoại ô Gia Định. Vô
hình chung gánh nặng lương thực lại đè nặng lên vai người thống soái quân Đại
Nam này.
Kế hoạch đặt ra là phải tiến hành đánh các chiến hạm của Pháp khiến chúng dè
chừng mà không dám hung hăng qua lại tự do trê sông. Nhưng tất cả kế hoạch
đánh của quân Đại Nam đều thất bại, khi quân Pháp đã đề phòng thì sự tập kích
của quân Đại Nam chuốc lấy thất bại thảm hại. Những chiến hạm bọc thép, đồng
của quân Pháp không thể phá hủy nổi. Đây chính là điểm khó khăn của quân Việt.
Cũng may mắn lúc này chất nổ cực mạnh Dynamite cùng các “chuyên gia” sử dụng
được cử đến quá đúng lúc khiến cho quân sĩ Nam Kỳ thấy được ánh sáng hi vọng.
Thêm vào đó là việc cải tiến súng Kammerlader 1842 thành phiên bản súng trường
Đại Nam 13 ( Tự Đức năm 13) là một niềm vui cũng như bất ngờ lớn lao của quân
sĩ Nam Kỳ. Nói đến con mẹ nó cải tiến thực ra cũng không có bất kì một bước
đột phá nào về mặt cấu trúc của súng đạn cả. Nhưng người Việt quả là ngàn năm
học một hiểu mười là không thể không phủ nhận. Không ngờ người cải tiến súng
Kammerlader lại là một người người quan làm trong công bộ Đại Nam và được
tuyển làm người đại diện của Đại Nam triều trong việc quản lý công ty vũ khí
Đại Nam đóng tại Kinh đô Huế. Ông ta có tên Trương Vĩnh Sử. Không ngờ sau khi
tham quan bốn tiểu chiến hạm được thu về bởi Hoàng Diệu thì vị Thị Lang Công
bộ này lại có linh cảm sau khi tìm hiểu kĩ càng về pháo cũng như đạn của những
thanh đại bác 12 pound Napoleon III. Đạn đại bác là những quả đạn có thuốc nổ
chế liền cùng đầu đạn, chúng được nhét cùng lúc vào nòng pháo từ phía trước.
Khai hỏa của pháo thông qua một lỗ nhỏ thông vào buồng đốt có tên là Vent.
Trước khi khai hỏa thì pháo thu cần dùng que nhọn mà chọc thủng vỏ bọc thuốc
nổ, sau đó cắm hạt nổ vào trong và tiến hành bắn.
Từ điểm linh cảm trên mà Thị Lang Trương Vĩnh Sử đắn đo suy nghĩ hồi lâu. Ông
ta đưa ra một sáng kiến hoàn toàn rất khoa học. Tại sao đạn của súng
Kammerlader lại không dùng phương pháp này để chế tạo. Như vậy quá trình nạp
đạn chỉ có một bước duy nhất đó là nhét toàn bộ một khối đạn dấy liên hợp cả
đầu dạn và thuốc súng vào buống đốt. Sau đó thì cũng dùng kim nhỏ chọc thủng
vỏ giấy thông qua lỗ điểm hỏa. Nhưng vấn đề lúc này hạt nôt lại bố trí ở bên
ngoài nên không thể gây nôt cho thuốc súng bên trong buồng đốt. Vậy là đại ca
Trương Vĩnh Sử đưa ra khái niệm hạt nổ dạng que ngắn có thể xuyên thẳng vào
buồng đốt. Tất nhiên ông chỉ đưa ra khái niệm và các chuyên gia phương tây
người Thụy Điển đang làm việc cho công ty Đại Nam thực hiện chi tiết. Và con
mẹ nó họ đã thành công, từ lúc này súng Kammerlader có tốc độ bắn tăng lên gần
ngang ngửa khẩu súng Both action . Tất nhiên mọi sự so sánh đều là khập
khiễng, nhưng tốc độ bắn quả là nhanh gấp nhiều lần so với trước kia. Tất
nhiên dụng cụ của các xạ thủ Đại Nam 13 gun có thêm một thanh móc dài 15 cm
được đeo ở cổ tay phải, thanh móc này dùng để móc giấy sót lại trong buồng đốt
của súng Đại Nam 13.
Thật là hơi xấu hổ một chút khi đổi toàn bộ súng Kammerlader thành súng trường
Đại Nam 13 vì thật ra sụ thay đổi chỉ là về đạn và hạt nổ mà cấu trúc súng vẫn
như nguyên. Nhưng Tự Đức thích vậy đấy đứa nào dám ý kiến. Tiến bộ này mới
khiến quân Đại Nam như vỡ òa trong sung sướng, vì với sáng khiến này không
những tốc độ bắn của họ tăng gấp 3 lần, thời gian thành thục với súng cho học
viên mới cũng giảm vô thời hạn. Thêm vào đó đạn được bọc nguyên vẹn trong giấy
dầu chống thấm nên có khả năng tác chiến trong thời tiết mưa không quá lớn.
Tiến bộ này tại Đại Nam được coi là đột phá và rất đáng được hoan nghênh. Nghe
nói đâu vị Thị Lang Trương Vĩnh Sử đang thừa thắng xông lên mà nghiên cứu xem
súng Kammerlader cso thể bắn đươc đạn nhìn trụ có đai như súng Minire của Pháp
hay không. Nếu thằng cha này có thể nghiên cứu được thì…. Có lẽ người việt sẽ
có súng trường phiên bản Đại Nam 14 hay 15 gì đó. Thật là hết biết.
Diêu thiếu lúc này cũng đang nằm nghỉ ngơi sau chuyến bôn ba Hương cảng dai
ngày với sự thành công tốt đẹp. Trong tay hắn là một loạt các tin tình báo
khắp nơi được hệ thống mật vụ non trẻ của mình gửi về. Tất nhiên công ty súng
Đại Nam có phân nửa cổ phần vốn của K&R; thế nên việc Trương Văn Vĩnh sáng
kiến ra kiểu bắn mới không thể che dấu được Diêu gia.
Diêu thiếu vỗ trán đánh đụp một cái, con mợ nó phương pháp đơn giản vậy mà hắn
lại không thể nghĩ ra, Quả thật không thể coi thường anh hùng thiên hạ. Nói
chung với sáng kiến này phải chế ra hạt nổ đặc biệt dành riêng, nhưng chế loại
hạt nổ này với công ty Đại Nam vũ khí với công nghệ rác từ Thụy Điển không
phải là chuyện khó gì. Quan trọng là phát kiến này cực kì ổn, tốc độ bắn phải
nói là vô cùng khủng khiếp vào lúc này, và nó đã đuổi kịp tốc độ bắn của súng
Dreyse M1841 của quân Phổ.
Tất nhiên quân Nam Kỳ nhận được viện trợ 500 khẩu súng mới tinh thì quân Vạn
Ninh cũng được nhận 300 cây. Tự Đức mặc dù luôn hướng mắt theo dõi chiến sự
Nam Kỳ nhưng ông cũng không quên tên Lê Duy Phụng tại Bắc Kỳ. Tự Đức đã hạ tử
lệnh cho quân Vạn Ninh phân binh tiến về Thái Nguyên tiêu diệt đám giặc cỏ này
rồi.
Nhìn đám súng mới tinh trong doanh trại, lại nhìn báo cáo trên tay nói về việc
Trương Văn Vĩnh đang muốn cải tạo Kammerlader có thể bắn đạn hình trụ thì Diêu
thiếu không thể không viết một bức thư tay gửi cho vị sáng kiến sư người Việt
này. Trong thư có đoạn.
“…. Từ đạn hình cầu biến thành đạn hình trụ dĩ nhiên trọng lượng thay đổi mà
tăng mạnh, thêm vào đó thể tích sẽ tăng lên nên chiếm diện tích buồng đốt. Nếu
lượng thuốc nổ vẫn giữ nguyên thì chắc chắn sẽ không đủ động lực khiến đạn bay
xa. Tất nhiên phương án giaie quyết có hai cách, thứ nhất : nếu có thể thay
đổi kích thước nòng súng nhỏ xuống, đạn nhỏ xuống thì có thể giải quyết tình
trạng trên. Nhưng nghiên cứu công nghệ thay đổi kích thước nong rất khó khăn
và cần thời gian. Cách thứ hai nếu thay đổi kích thước buồng đốt dài ra thì
lượng thuốc nổ sẽ tăng lên hoàn toàn đủ động lực đẩy đầu đạn nặng. Nhưng làm
như vậy thì buồng đốt có khả năng bị vỡ do lượng thuốc súng nhiều. Cánh giải
quyết có thể là tăng độ dày, hoặc tăng chất lượng thép của buồng đốt……”
Đây không phải gợi ý mà là phương án thiết kế chính xác để cho ra phiên bản
bắn đạn hình trụ của súng Kammerlader. Tất nhiên chi tiết buồng đốt tăng lên
bao nhiêu, độ dày tăng bao nhiêu, đầu đạn dài bao nhiêu cần vô số thử nghiệm.
Diêu thiếu không có nhà máy sản suất súng nên hắn chỉ có thể đưa ra gợi ý để
Trương Vĩnh Sử đi làm mà thôi.
Tuy nói vạn chuyện thuận lợi nhưng chuyện mở công ty Hoàng gia, và chuyện cải
cách mang tính chất cá nhân của Tự Đức lại gặp trở ngại vô cùng lớn. Việc Tự
Đức bỏ tiền túi trong nội khố 20 vạn lượng bạc thành lập ba nhà xưởng gồm hai
nhà máy dệt cộng thêm một nhà máy luyện gang thép vốn dĩ chả liên quan đến ai,
và chẳng có lực cản gì. Không ngờ sau khi Tự Đức đưa ra kế hoạch lại bị phản
đối vô cùng kịch liệt. Hàng loạt những luồng ý kiến trái chiều vui dập vị
hoàng đế Đại Nam này.
Số là ban đầu cũng chẳng có nhiều ý kiến cho lắm, hoàng đế thích thắt lưng
buộc bụng nội cung mà thành lập nội xưởng thì ai đi ý kiến. Đây cuối cùng cũng
là việc của Thành thượng nhà riêng. Nhưng khốn nạn là ngành dệt thủ công của
Đại Nam đã bị hai nhà máy của Diêu thiếu chèn ép đến thở không được, nay lại
còn thêm hai nhà xưởng hoàng gia nhảy vào thì họ đành có nước đi ăn mày à. Vậy
là ban đầu một loạt quan viên có chân trong chân ngoài với ngành dệt lên tiếng
phản đối nhưng dù sao số người này lực mỏng thế yếu cũng chưa gây ra nhiều
sóng gió.
Nhưng khi Tự Đức đưa đề nghị để K&R; tiếp nhận một mỏ sắt quyền khai thác với
điều kiện sẽ đóng thuế hàng năm là 150% sản lượng thép hiện tại của mỏ thép về
triều đình thì tất cả như vỡ tung. Tất nhiên người hữu tâm nhìn vào thì thấy
Đại nam có lợi, chả cần tốn công tổ chức thợ thuyền vẫn thu vào được gấp rưỡi
sản lượng hàng năm. Nhưng những tên quan liên quan đến mỏ thép thì sao. Đấy là
đập bát cơm của họ, mỗi năm mỏ thép đóng gop cho ngân sách một phần thì gấp ba
lần chỗ ấy là đem đút lót cho quan viên. Sau khi đút lót quan viên, đóng ngân
sách thì số dôi ra cho lũ quản cơ mỏ cũng vẫn rất lớn. Nay cả một món lợi lớn
như vậy Tự Đức lại đem cho K&R; khai thác và chỉ trả cho triều đình 150% những
gì trước đây triều đình đã nhận. Vậy thì 300% còn lại sẽ rơi vào tay K&R; và
các quan viên liên quan tới mỏ kia sẽ chết đói. Quan trọng là có được sự mở
màn này thì Tự Đức có thể làm với các mỏ khác, ví như kẽm, đồng. Đến lúc đó
thì quan viên cạp đất mà ăn à.
Chính vì thế một cuộc phản đối quy mô lớn do các quan viên có liên quan đến mỏ
khai thác được tập hợp, Nhóm này có cả tiềm lực cộng thực lực lớn hơn nhiều
nhóm dệt vải, vì lý do đó Tựu Đức nhận được áp lực chưa từng có. Họ vin vào lý
do, Nho học từ trước đến này là “sĩ . Nông, công, thương” Thương nhân là thấp
kém nhất cớ sai Hoàng gia tham gia vào. Vậy không làm quá mất thân phận ư,
quốc thể còn đâu. Tiếng khóc than vang ngập triều đường Huế. Tự Đức ôm đầu lâm
bệnh nằn liệt không dậy nổi.