Người đăng: Alasat
Cả nhóm quyết định ở lại Thượng Hải thêm hai ngày nữa.Tối hôm trở về Ly Thành,
Thư Mạn dựa trong lòng Đỗ Trường Phong mơ một giấc mơ thật dài. Cô mơ thấy rất
nhiều, rất nhiều thiên nga, họ đuổi theo thiên nga chơỉ đùa, cuối cùng, dường
như ngay bản thân cũng biến thành thiên nga, bay lượn trên bầu trời, còn tự do
hơn cả gió...
Lúc tỉnh dậy, cô kể lại giấc mơ này với Đỗ Trường Phong, Đỗ Trường Phong nhẹ
nhàng thở dài, hôn lên trán cô và nói: “Đời này có em làm bạn với anh, có tự
do hay không cũng không còn quan trọng như vậy nữa rồi...”
Sáng hôm sau, sau khi Thư Mạn lưu luyến bịn rịn chia tay Cảnh Mặc Trì và Bạch
Khảo Nhi, cô bước chân lên hành trình trở về Ly Thành, về đến sơn trang thì đã
hai giờ chiều, Đỗ Trường Phong không chịu để Thư Mạn về nhà trên phố Đào Lý,
khăng khăng đòi kéo cô về sơn trang. Từ sau tối hôm đó, hai người cứ như hình
với bóng, thậm chí Thư Mạn vào nhà vệ sinh thì Đỗ Trường Phong cũng phải đợi
bên ngoài cửa. Vi Minh Luân thấy thế cười anh, anh lại nói: “Anh không phải là
tôi, anh không thể hiểu được tôi suy tính thiệt hơn như thế nào đâu. Tôi chỉ
sợ chỉ chớp mắt một cái là lại không thấy cô ấy đâu nữa, luôn cảm thấy đây như
là một giấc mơ vậy, không hề cảm thấy một chút gì gọi là cảm giác thực cà.”
Dự cảm của Đỗ Trường Phong nhanh chóng linh nghiệm.
Vừa xuống máy bay, họ nhanh chóng kéo hành lý về Hải Đường hiểu nguyệt nghỉ
ngơi lấy sức. Vừa đặt hành lý xuống thì chuông cửa kêu, Vi Minh Luân ra mở
cửa, có mấy người đàn ông mặc âu phục chỉnh tề đứng trước cửa, trông mặt đều
lạ cả. Một người đàn ông tầm tuổi trung niên đeo kính gọng đen nghiêm túc tiến
lên: “Xin hỏi vị nào là Đỗ Trường Phong?”
Đỗ Trường Phong từ trong nhà ngó đầu ra: “Chính là tôi, ông là ai?”
“Chúng tôi nhận được sự ủy thác của tòa án trung cấp Ly Thành, là nhóm giám
định tư pháp bệnh thần kinh từ Bắc Kinh đến đây, mời anh đi theo chúng tôi một
chuyến.”
Vi Minh Luân cứng họng, mặt bỗng nhiên trắng bệch ra.
Đỗ Trường Phong Lại bình tĩnh đến bất ngờ, gật đầu: “Được, xin đợi một chút,
tôi thay bộ quần áo.” Nói rồi liền chuẩn bị đi lên gác, Thư Mạn thẫn thờ đứng
ở chân cầu thang, anh xoa mặt cô, hôn lên trán cô: “Anh không sao, ngoan nào.”
Sau đó lộc cộc leo lên cầu thang.
Phút chốc, nước mắt như những hạt trân châu lăn xuống từ trong mắt Thư Mạn.
Bỗng chốc cô hiểu ra, cô nhìn thẳng Vi Minh Luân, khóe mắt Vi Minh Luân cũng
đỏ hoe. Hai người cùng nhìn nhóm người đang đứng ngoài cửa... Không thể làm gì
được, không thể làm bất cứ điều gi, họ chỉ có thể giương mắt nhìn Đỗ Trường
Phong bị đưa đi. Lúc Đỗ Trường Phong lên xe, Thư Mạn đột nhiên nắm lấy vạt áo
anh không chịu buông. Vi Minh Luân cố giằng tay cô ra cũng không được, cô cứ
túm chặt lấy Đỗ Trường Phong, như thể dùng hết sức bình sinh, rên rỉ, “Nếu khi
nào anh được ra... mà em không còn nữa, hãy trồng cho em một cây trúc...”
Đỗ Trường Phong giương to đôi mắt nhìn cô.
Hóa ra cô đã biết rõ tất cả! Cô biết cô chính là “cô bé” trong lòng anh.
Chỉ là đã không còn kịp nữa, đã không còn kịp nữa rồi. Cô chỉ có thể túm lấy
vạt áo anh, nhìn anh với ánh mắt tuyệt vọng, dường như là muốn nhớ lấy khuôn
mặt anh, khuôn mặt ấy, rất nhiều năm trước cô đã từng gặp rồi, dưới bóng cây
hương Chương đêm trăng đó, anh gọi cô là “cô bé”, cô chửi anh “Đồ khốn”...
Chuyện thời niên thiếu vô tư ấy thực ra cô đã nhớ lại từ lâu rồi, thế nhưng
anh lại tưởng cô không nhớ.
Cô không muốn nói rằng cô nhớ, chỉ là vì cô biết đã không còn kịp nữa rồi. Cô
yêu anh nhưng lại không thể nói, cô sợ sau khi cô ra đi, anh sẽ lại nhốt mình
trong cái tù ngục mà anh tự tạo ra thêm mười bảy, mười tám năm, hay thậm chí
còn lâu hơn nữa. Cô sợ tình yêu của cô sẽ cầm tù anh, khiến anh suốt kiếp
không thể đầu thai được nữa. Cô không thể ích kỉ như vậy được! Thương thay anh
đã bị cầm tù trong cũi lồng tinh thần suốt mười bảy năm rồi, cứ để anh tuyệt
vọng từ đây cũng còn tốt.
Nhưng anh không hiểu, cô vẫn còn muốn tiếp tục sống biết bao, nếu như có thể
vay ông trời mười năm hay hai mươi năm gì đó, hay cho dù chỉ là một năm, hai
năm, cô cũng muốn tiếp tục sống, để lại được yêu anh đến hết mình một lần nữa.
Tình yêu trước đó quá cay đắng, cô còn chưa cảm nhận được bao nhiêu hạnh phúc
và ngọt ngào của nó thì ông trời đã cướp đi mất rồi. Những ngày tháng ấy, cô
thường nghĩ, nếu như năm đó, dưới gốc cây hương Chương, anh không chạy trốn
thì người cô yêu không phải là Lâm Nhiên mà sẽ là anh, vậy thì rất nhiều bi
kịch có thể tránh khỏi rồi, chẳng phải sao? Nhưng vận mệnh là thế đấy, sai một
bước, thiếu một giây, một gang tấc liền biến thành cả một chân trời, cho dù
bây giờ cô đang yêu anh, nhưng rồi thế nào cũng lại bỏ lỡ, bởi vì cô không
biết bản thân mình còn bao nhiêu thời gian nữa...
Còn anh, lấy hết sức mình ôm chặt lấy cô: “Tiểu Mạn!”
Anh không nói ra được lời nào, chỉ có thể gọi tên cô, mặc cho nước mắt thấm
vào kẽ tóc cô. Chưa bao giờ anh sợ hãi đến vậy. Không phải sợ chết, không phải
sợ bị băm thành trăm mảnh, chỉ sợ lại bị nhốt vào trong viện tâm thần, kiếp
sau cho dù có làm một con chim, thì cũng còn hơn là bị nhốt trong đó...
Gió nổi lên rồi.
Diệp Quán Ngữ đứng trong sân dinh thự ngước nhìn bầu trời, gió như muốn thổi
tan hết những đám mây trên trời đi vậy có một con chim bay ngang qua trên đầu,
vẳng lại một tiếng kêu chói tai, xé toạc bầu trời, tạo thành một lỗ hổng trong
suốt trên không. Diệp Quán Ngữ khẽ nói, giọng lạnh lùng: “Tôi sẽ khiến anh
không bằng một con chim!”
Đã là mùa xuân, mùa mưa dầm cũng vừa qua, chỉ trong một đêm mà hoa nhài trong
dinh thự đã nở rộ, khắp sân và dinh thự, nơi đâu cũng nức mùi thơm. Diệp Quán
Ngữ đứng trong những khóm hoa, tay nhẹ nhàng gẩy cành lá xanh biếc, bông hoa
nhỏ trắng nở giữa những cành lá lập tức đung đưa đẹp mắt, cứ như thể hiện hết
ra vẻ đẹp của mình để nghênh đón sự chiếu cố của anh.
Đã lâu rồi anh không đến dinh thự, suýt nữa thì bỏ lỡ mùi thơm nồng nàn nhất
khi hoa nhài bắt đầu nở. Bà Bối La từng nói, hoa nhài chỉ thơm nhất là trong
bảy ngày đầu tiên khi bắt đầu nở, cũng như tình yêu ỵậy, nhất định là tình yêu
đầu tiên mới là chân thực nhất, và cũng là hoàn chỉnh nhất, trải qua đủ mọi đả
kích và sự tàn phá của hiện thực, thì tình yêu dù có thơm nồng nàn đến thế nào
cũng trở thành bi thương.
Nói hay thật...
Diệp Quán Ngữ lại thở dài, ngồi lên một chiếc ghế đá trong sân vườn.
“Thư tiểu thư và Đỗ Trường Phong đang ở cùng nhau.”
Khi tên thuộc hạ theo đuôi Đỗ Trường Phong báo tin này cho anh, anh chỉ cảm
thấy bi thương. Đứng trước cửa sổ phòng ngủ ngắm mưa rơi suốt cả đêm, màn đêm
đen sì, trái tim anh như lạnh đến tận đáy. Vốn dĩ là vẫn còn một chút thương
hại, người đó bị nhốt trong viện tâm thần bao nhiêu năm như thế nên anh mới
cho anh ta một chút tự do để tiếp tục chơi trò chơi này cùng mình. Vì anh luôn
cô độc, cô độc đến cùng cực, dù đứng giữa hàng vạn người nhưng anh vẫn thấy
mình là người cô đơn nhất trên thế gian này. Anh thường so sánh mình như một
con mèo, nếu không còn chuột nữa thì mèo liệu có còn là mèo không? Nhưng, giờ
anh không muốn chơi nữa, cho dù anh không thể làm mèo.
Sau khi họ đi Thượng Hải, Lữ tổng quản từng hỏi anh :“Chúng ta nên làm thế
nào?”
Ánh mắt Diệp Quán Ngữ lơ đễnh, tay nghịch chiếc nhẫn ngọc bích trong suốt lung
linh, hỏi lại ông: “Phải làm thế nào mới có thể khiến chim không bay lên
được?”
Lữ tổng quản không suy nghĩ, đáp: “Đương nhiên là bỏ cái cánh của nó đi rồi!”
“Sai rồi! Bỏ cánh đi rồi thì có còn là chim không? Nó sẽ chết... Tôi không
muốn anh ta chết, tôi muốn anh ta sống, muốn bay lại không bay được, như vậy
mới đúng là sống không bằng chết.”
“Vậy thì hãy làm cho anh ta một cái lồng thật kiên cố.”
Diệp Quán Ngữ không trả lời, nhìn ngắm tẩn mẩn chiếc nhẫn trong tay, rồi lại
giơ lên soi trước ánh đèn, như thể đang ngắm một vật quý giá hiếm có trên thế
gian, lơ đễnh như thể không nghe thấy lời Lữ tổng quản vừa nói.
Lữ tổng quản ngầm hiểu ý ông chủ, vội tiếp lời: “Diệp tổng, nếu không có
chuyện gì thì tôi đi trước nhé.”
Diệp Quán Ngữ không nhìn ông, nhẹ nhàng hôn lên chiếc nhẫn.
Lúc này đây anh đang ngồi trong sân, lại đang ngắm nhìn chiếc nhẫn ngọc bích
đeo trên ngón tay trái, một vòng xanh biếc quấn quanh ngón tay, phát ra ánh
huỳnh quang màu xanh lục trong suốt dưới ánh nắng, thứ ánh sáng thật khác
thường, tựa như bản thân nó có linh hồn, như đang lặng lẽ kể lể điều gì đó...
Hơn mười năm rồi, ngoài chiếc nhẫn này ra, chẳng có ai biết anh đã từng xuống
địa ngục. Người bò lên từ địa ngục thì hầu như chẳng còn chút nhân tính gì
đáng nói. Cho dù là thế, anh vẫn muốn trở lại làm một con người bình thường.
Bà Bối La đã từng nói, cảm giác thù hận thật sự quá đau khổ, nếu như được lựa
chọn, bà nguyện chọn yêu chứ không chọn hận. Vì vậy bà Bối La thường khuyên
bảo anh, con trai, hãy từ bỏ hận thù của cậu đi, rồi cuối cùng sẽ có một ngày
cậu sẽ phát hiện ra rằng cái giúp cậu sống đến mãi tận lúc cuối ấy lại chính
là tình yêu, chứ không phải là hận thù... Thực ra, đúng là anh muốn từ bỏ, chỉ
vì trong lòng quyến luyến người con gái đó. Nhưng đến giờ cô ấy đã yêu rồi,
nghe nói lại còn yêu cái thằng điên ấy, bỗng nhiên anh mơ màng, mất cô, mất đi
tình yêu, anh chỉ còn lại hận thù, làm sao anh còn có thể yêu được nữa... Thật
đáng tiếc, bà Bối La không còn nữa, nếu không nhất định bà sẽ nói cho anh biết
câu trả lời.
Anh ngẩng đầu lên nhìn ngói lợp xanh biếc trên mái nhà, cả dây trường xuân bò
dài giăng dợ trên tường, năm này qua năm khác, cho dù đã trải qua phong ba bão
táp như thế nào thì những dây trường xuân và rêu xanh ấy vẫn luôn như hình với
bóng, không nỡ nào khô héo, không nỡ nào chết đi, cũng giống như những người
đã từng sống trong dinh thự này, mặc dù được chôn cất mỗi người một nơi nhưng
họ chưa bao giờ rời xa nhau, mãi luôn ở đây. Mỗi khi đêm khuya vắng lặng, một
mình trong sân thở khẽ lắng nghe, thậm chí anh còn có thể nghe thấy âm thanh
của những người ở thời đại ấy, những chuyện của thời đại ấy, có tiếng thở dài,
cũng có cả tiếng bước chân đi...
Một buổi chiều gió hiu hiu, ngửi hương thơm phảng phất khắp sân thế này sẽ rất
dễ nhớ lại chuyện cũ. Diệp Quán Ngữ nhắm mắt lại, chợt cảm thấy thời gian như
quay lại thời điểm hơn mười năm về trước. Khi đó anh còn đang làm thuê ở Đồng
Thành, được ông chủ sắp xếp cho tính giá thành trong một công ty sửa chữa lắp
ráp. Lần nào Diệp Quán Ngữ cũng hoàn thành nhiệm vụ xuất sắc, giá xây dựng
tính ra khiến ông chủ và khách hàng đều rất hài lòng. Điều duy nhất mà ông chủ
chưa ưng ở anh, đó là anh không đủ cứng rắn, lại quá thật thà, làm bao nhiêu
thì tính bấy nhiêu, bảo anh tính khéo một chút anh cũng không chịu. Ông chủ có
lần còn nói xẵng: “Cậu cứ thế này thì cả đời chỉ có làm thuê mà thôi. Nếu muốn
tương lai trở thành một ông chủ như tôi đây, thì cái đầu tiên mà cậu phải học
đó là phải nhẫn tâm, không nhẫn tâm thì cứ ở đó bị người ta bóc lột đi.”
Diệp Quán Ngữ lúc đó chỉ cười không đáp. Anh không hề nghĩ rằng, sau này, câu
nói ấy của ông chủ đã linh nghiệm ngay trên chính bản thân anh. Sự tàn khốc
của hiện thực, sự bỉ ổi của nhân tính, khi đó, ở tuổi của anh vẫn còn chưa cảm
nhận được.
Một hôm, lúc ông chủ ra ngoài về đã vỗ vai anh, vui vẻ nói: “Mau về Thanh Thủy
Đường đi, bà Bối La gọi điện đến bảo anh dù thế nào cũng phải về, nói là có
chuyện quan trọng. Bà ấy rất hài lòng về cái chậu hoa mà cậu chọn cho bà ấy
lần trước, khen anh hết lời, nói anh tốt bụng, có tố chất... Chà chà, tiểu tử,
cậu đi nhanh về nhanh, tiện gửi lời hỏi thăm sức khỏe của tôi đến bà ấy, hi
vọng sau này bà quan tâm nhiều, giới thiệu mấy ông chủ giàu có cho chúng ta.”
“Bà ấy không nói là có chuyện gì sao?” Diệp Quán Ngữ cẩn thận hỏi lại.
“Cậu lo chuyện này làm cái gì, bà ấy bảo cậu đi thì cậu cứ đi, có phải ăn thịt
cậu đâu mà sợ!” Ông chủ mặt mày dữ tợn, vẻ thần bí nói, “Đừng thấy bà già ấy
đã lớn tuổi, lại chỉ là một người bình thường, tôi nói cho các anh biết, bà ấy
mới là người giàu có thực sự, chúng ta nịnh hót bà ấy còn chẳng xong nữa là!”
“Ông chủ, làm sao mà ông biết bà ấy giàu?” Một bác thợ sơn bên cạnh hỏi.
“Anh thì biết cái khỉ gì! Tôi nghe người ta nói, hồi trẻ bà này là một gì gì
đó, dù sao thì cũng không phải là vợ chính của một ông quan to của tỉnh, ông
quan lớn đó là một nhà tư bản, giàu có vô đối. Hồi ‘Cách mạng văn hóa’ ông ta
bị xử tử rồi, trước lúc lâm chung còn để lại cho bà này một đống tiền, còn
nhiều như thế nào, nếu không khoa trương thì nghe nói có thể mua được cả nửa
cái Đồng Thành này đây, còn nếu khoa trương thì tiền còn dư để mua cả cái Đồng
Thành này. Cái dinh thự mà bà ấy đang à bây giờ chính là ông quan to ấy tặng
đấy, nghe nói dưới đất còn chôn cả vàng nữa...”
“Phét! Làm gì có chuyện đó.” Các bác thợ chẳng ai tin.
Diệp Quán Ngữ cũng không tin. Anh quen biết bà Bối La cũng hoàn toàn là do
công việc, bà ấy muốn tân trang lại dinh thự, chính là Thanh Thủy Đường, căn
nhà thời xưa có tường ngói xanh bao quanh cả sân vườn rộng, kiểu kiến trúc
điển hình thời dân quốc. Mặc dù vẫn nhìn ra được hơi hướng ngày xưa nhưng thời
gian đã trải qua mưa gió hơn nửa thế kỉ, không kể tới mối mọt làm gì, tường
nhiều chỗ cũng đã bị nứt, mái nhà cũng bị dột. Không biết ông chủ làm cách nào
mà tìm được vụ làm ăn béo bở này, bảo Diệp Quán Ngữ qua đó tính toán giá thành
tân trang, lại còn dặn kĩ tính nhiều lên một chút cững không sao nói là bà ấy
vừa mới bên nước ngoài về, nhiều tiền lắm. Nhưng Dỉệp Quán Ngữ vẫn không chịu
nghe, tính toán chi li rõ ràng mạch lạc, không những không hề khai man giá
thành, thậm chí lại còn đưa ra rất nhiều ý kiến, góp ý về cách bài trí cảnh
quan bên ngoài lẫn trong nhà, khiến bà rất hài lòng. Sau khi công trình hoàn
công, bà thường mời Diệp Quán Ngữ đến chơi, mời anh dùng cơm, nhà có vấn đề gì
cũng chỉ tìm anh.
Nhưng dịp để Diệp Quán Ngữ và bà Bối La trở thành bạn bè không câu nệ tuổi tác
đó chính là vào mùa xuân trước đó, bà Bối La muốn treo mấy cái đèn lồng trong
sân, và mời Diệp Quán Ngữ qua giúp. Diệp Quán Ngữ vui vẻ đến giúp, không những
giúp bà treo đèn, mà còn đích thân viết một câu đối dán trước cửa, khiến bà
vui quá cười mãi, kết quả là vui sướng quá, ngất ngã vật xuống đất. Diệp Quán
Ngữ giật bắn mình, vừa gọi người khác trong dinh thự gọi xe cấp cứu, vừa thực
hiện biện pháp cấp cứu đơn giản cho bà lão, may vì cấp cứu kịp thời nên đã cứu
được mạng sống. Bà vô cùng cảm kích, sau khi xuất viện cầm một xấp tiền nhét
cho anh, Diệp Quán Ngữ kiên quyết không nhận, lại còn giận dỗi hẩy tay bỏ về.
Chuyện này khiến bà cảm thấy Diệp Quán Ngữ là người có chí khí, liền cho thư
kí đến tận công ty lắp đặt sửa chữa xin lỗi anh, còn mời anh đến dinh thự dùng
cơm, nói mà khiến người ta cảm động rơi nước mắt.
Đương nhiên, Diệp Quán Ngữ không hề chấp nhặt bà, liền tỏ ý rằng mình không để
bụng gì. Cũng chính từ hôm đó, bà coi Diệp Quán Ngữ như người nhà mình, có
việc hay không có việc gì cũng gọi anh đến nói chuyện gia đình, chuyện trò,
nói về cuộc đời, mỗi lần như thế Diệp Quán Ngữ không bao giờ từ chối. Anh cảm
thấy ở bà có một sức hấp dẫn kỳ lạ, đầu tóc bạc phơ, thoạt nhìn là biết bà là
người trải qua bao cuộc bể dâu của thời cuộc, lại thông kim bác cổ, trong
trường hợp nào cũng có kiến giải đặc biệt về cuộc sống và số phận, coi tiền
tài danh lợi như mây khói phù du. Mặc dù bà không nói chuyện, ngồi dưới gốc
cây hải đường trong sân phe phẩy chiếc quạt, ngước nhìn bầu trời, ánh hào
quang phát ra trên khắp người cũng khiến người ta thực sự khâm phục. Một già
một trẻ gạt đi tuổi tác và số phận, từ đó trở thành một đôi bạn vong niên, có
thể tám đủ mọi chuyện trên trời dưới bể.
Khi đó, Diệp Quán Ngữ còn trẻ, có gì khó khăn nghi hoặc gì đều nói với bà lão,
họ nói về tất cả mọi chuyện, chỉ có tình yêu là không bao giờ nói đến, dường
như đây là điều cấm kị của bà. Bà có thể giải đáp bất cứ câu hỏi nào cho Diệp
Quán Ngữ, chỉ riêng về chuyện tình yêu là không. Bà không nói rõ vì sao, dường
như đó là mối trắc trở của bà, hễ động tới chủ đề này là bà lại chìm vào im
lặng, như thể linh hồn đã bị đánh cắp đi vậy, không thể nói thêm một từ nào
nữa.
Vậy nên, Diệp Quán Ngữ cố gắng tránh khỏi chủ đề kiểu như thế.
Rất nhiều lúc anh cảm thấy bà như một câu đố vậy.
Về thân thế, hoàn cảnh của bà lão thì đã nghe mọi người bàn tán xôn xao, nói
thế nào cũng có, nhưng đại khái là bà rất giàu có, có rất nhiều, rất rất nhiều
tiền. Còn về tiền đó từ đâu mà ra thì cũng chẳng ai có thể đưa ra kiến giải
một cách chắc chắn. Diệp Quán Ngữ chỉ phong thanh ba mươi năm trước bà sang
Pháp định cư, mãi đến tận hai năm trước mới về nước, ở nước ngoài có gia đình
hay không, có con cái gì hay không anh cũng không hề biết. Nhưng anh lờ mờ
hiểu rằng bà đúng là người rất có thân thế, một bà già đơn thân mà lại có đến
ba thư kí, mấy người bảo mẫu, lại còn y tá, đầu bếp, lái xe riêng, vân vân, họ
đều ở trong dinh thự, bất cứ lúc nào cũng sẵn sàng đợi bà sai khiến.
Lại nhìn đến cách ăn mặc của bà, tuy kiểu dáng bình thường nhưng chất liệu đều
là hàng cao cấp, phần lớn thời gian bà mặc xường xám hoặc áo kép kiểu Trung
Quốc, đeo trang sức ngọc bích, nhẫn, vòng tay, khuyên tai, tất cả đều bằng
ngọc bích. Bà lại là một người nhã nhặn, rất ít khi đeo vàng, lại càng không
nói đến đá quý, Diệp Quán Ngữ có cảm giác, với bà, những thứ đó đều tục quá.
Cả cái cách bà nói chuyện cũng đủ để người ta thán phục, luôn giữ cho mình tâm
thế ung dung thong thả, một cái nhăn mặt hay một cái cười cũng đầy ý vị, cũng
giống như mùi nước hoa trên người bà, trong cái vẻ nho nhã lại có vài phần hiu
quạnh, khiến người ta mê mẩn. Diệp Quán Ngữ cảm phục trước vẻ hấp dẫn của bà
nhưng cũng không hề tìm hiểu quá sâu về bà, cũng như không hề muốn giải đáp
câu đố bí ẩn của bà vì dù sao đó cũng là chuyện riêng của cá nhân bà.
Hôm đó, bà gọi Diệp Quán Ngữ đến Thanh Thủy Đường anh cũng lờ mờ cảm thấy có
chuyện gì đó.
Trong sân Thanh Thủy Đường trồng rất nhiều hoa nhài, phía sau nhà là cả rừng
cây rậm rạp. Hình như bà rất thích hoa nhài, không cho phép trồng thêm bất cứ
một loài hoa cỏ nào khác. Khi đó chưa phải là mùa nhài nở, trong sân chỉ một
màu xanh biếc, màu xanh loang lổ ấy cũng rất giống với những trang sức ngọc
bích mà bà đang đeo kia. Căn dinh thự ẩn hiện trong màu xanh biếc đó có tất cả
ba tầng, tầng một là phòng khách và phòng ăn, tầng hai là phòng ngủ và phòng
đọc sách của bà, thường là cấm người khác lên đó. Mọi thiết kế bài trí trong
nhà đều là kiểu tây cả, có lẽ liên quan đến việc bà sống ở nước ngoài nhiều
năm. Thảm, rèm cửa, đèn treo tường và cả đồ đạc nội thất, tất cả đều là đồ
chuyển từ nước ngoài về sau khi dinh thự được tân trang lại... Chỉ có tầng ba
là vẫn để đồ đạc cũ, giấy dán tường tuy có thay mới nhưng được bà tìm một nhà
sản xuất đặt theo y hệt nguyên mẫu cũ.
Bà lão rất cố chấp, tuyệt đối không cho thay đổi bất cứ đồ đạc gì trong phòng,
dịch chuyển một chút thôi cũng không được, vậy nên mỗi lần lên tầng ba, Diệp
Quán Ngữ đều có cảm giác như đi xuyên qua cánh cửa thời gian vậy, như thể trở
lại thời ngày xưa, một cái đèn để bàn te tua, một cái ghế dài mài nhẵn thín cả
sơn, tất cả đều toát lên một màu sắc của những thăng trầm, vắng lặng của năm
tháng. Thế nên, Diệp Quán Ngữ biết, bà vẫn còn sống trong quá khứ, chưa bao
giờ chịu bước ra.
Lúc đó đã chập choạng tối, hoàng hôn còn sót lại chiếu xuyên qua rèm cửa sổ,
hắt vào trong phòng khiến mặt thảm vàng rực, những bông hoa hồng trắng bày
trên tủ phía đầu giường cũng khoác thêm màu cổ xưa.
Bà Bối La dựa trên một đống những gối mềm phía đầu giường, có một khoảng thời
gian không gặp mà trông bà già yếu đi nhiều, có thể là có liên quan đến việc
bà chưa trang điểm. Bà là người rất giữ lễ tiết và được giáo dục bài bản, bình
thường mỗi khi tiếp khách đều trang điểm, đầu tóc cũng không bao giờ rối, vấn
gọn lại đằng sau trông thật nho nhã. Nhưng hôm nay bà không chú ý nhiều đến
như vậy, có thể là vì đầu tóc rối quá nên bà đội một chiếc mũ chụp ngủ trông
lại càng tiều tụy và cẩu thả, tuy thế, bà vẫn toát lên vẻ cao quý lạ thường.
“Quán Ngữ, cuối cùng cậu cũng đã đến rồi, ta cứ tưởng ta sắp không còn gặp
được cậu nữa.” Bà chìa tay về hướng Diệp Quán Ngữ, dưới ánh hoàng hôn, màu sơn
đỏ trên móng tay bà cũng vô cớ mang một chút thê lương. Bà nắm lấy tay Diệp
Quán Ngữ, run run, “Con trai, gặp được con đúng là giờ phút tốt đẹp nhất trong
ngày, còn hiệu quả hơn là uống bất kỳ thứ thuốc nào...”
“Bà ơi, bà ốm rồi à?” Diệp Quán Ngữ ngồi xuống chiếc ghế bên cạnh giường, nhìn
thấy dáng vẻ ốm yếu của bà mà thấy nhói lòng. Bà Bối La cười nói: “Đừng gọi ta
là bà, thực ra ta chỉ lớn tuổi hơn mẹ con một chút thôi, nhưng lại không có
phúc được như mẹ con, có được một đứa con trai tốt thế này, ta thật ngưỡng mộ
mẹ con quá...”
Nói tới đó mắt bà ngân ngân nước.
“Bà...”
“Đứa bé ngoan, hôm nay có lẽ là lần cuối cùng ta gặp được con, hai ngày nữa ta
phải quay lại Pháp, có lẽ cả đời này sẽ không bao giờ về nữa, không về được
nữa...” Bà Bối La thở dài, đau buồn nhìn Diệp Quán Ngữ, thật tình không nỡ
lòng nào.
Diệp Quán Ngữ rất ngạc nhiên: “Bà phải đi sao?”
“Đúng vậy, bệnh phổi của ta lại tái phát rồi, phải quay lại Pháp để dưỡng
bệnh, vốn dĩ ta muốn chết ở đây cũng tốt, nhưng bên đó còn quá nhiều việc cần
ta sang xử lý, hơn nữa ở đây cũng chẳng có người thân nào cả, có chết rồi thì
ngay đến người thăm mồ thăm mả cũng không có.”
Bệnh phổi? Sao trước giờ có nghe bà nói gì đâu?”
“Ừ, bệnh cũ đã mấy chục năm nay rồi, lần này tái phát dữ lắm, sợ không qua
khỏi.” Bà vẫn mỉm cười, nói chuyện sống chết mà cứ bình thường như đang nói
chuyện thời tiết vậy, “Hôm nay ta gọi cậu đến đây là muốn hỏi cậu, có muốn
cùng ta sang Pháp không? Đừng vội trả lời, nghe ta nói đã, ta quý cậu, con
trai ạ. Nếu cậu muốn, ta sẽ nhận con làm con nuôi. Sang Pháp, con có thể có
được tất cả mọi thứ mà con muốn, ta không con không cái, cũng chẳng có người
thân nào còn sống cả, tất cả mọi thứ của ta đều là của con...”
“Không, không, bà ơi, không thể được!” Diệp Quán Ngữ vẫn quen gọi bà là “Bà”,
anh lắc đầu, “Cháu không thể bỏ lại người thân mà đi một mình được, mẹ cháu,
còn cả em trai cháu đều cần có cháu chăm sóc. Hơn nữa, cháu không hiểu biết tí
gì về nước ngoài cả, đi rồi lại chẳng làm được việc gì, cháu phải ở lại đây
bên cạnh người thân của cháu.”
“Con đúng là một đứa con hiếu thảo, khiến ta rất cảm động, cũng khiến ta lại
càng yêu quý con hơn, Quán Ngữ.” Bà lão thở dài, giọng nói trước đó vốn khàn
khàn bỗng nhiên trở nên nghẹn ngào, “Nhưng thực sự ta rất nuối tiếc nếu phải
xa con, không ngờ những năm tuổi già lại có thể gặp được một người có thể
khiến ta vui như con, khiến ta nghĩ đến rất nhiều chuyện ngày xưa, rất nhiều,
rất rất nhiều chuyện... Trong con người của con, ta thấy được hình bóng rất
quen thuộc, cho dù là rất mơ hồ, nhưng vẫn cảm thấy như được an ủi, thậm chí
là cảm kích, cảm ơn Thượng đế đã cho ta được gặp con trong đoạn cuối cuộc đời
này...”
“Bà ơi, bà đừng nản lòng, bệnh của bà sẽ khỏi thôi...”
“Không, không, điều ta muốn không phải là vậy.” Bà lão yếu ớt xua tay, từ từ
nhắm mắt lại, có lẽ là bệnh đã lâu lắm rồi, nói mấy câu chuyện mà người đã mệt
mỏi lắm.
Thế nên Diệp Quán.Ngữ không nói nữa, im lặng nhìn bà, để bà nghỉ ngơi.
Ánh hoàng hôn của mặt trời giờ chỉ còn lại một góc nghiêng nghiêng. Trong
phòng vắng lặng đến lạ kỳ, chỉ còn tiếng kêu tích tắc của chiếc đồng hồ trên
tường cho biết rằng thời gian vẫn đang trôi.
“Quán Ngữ, cháu có muốn biết quá khứ của ta không?” Mãi lâu sau, bà Bối La mới
lại mở mắt ra, trong mắt hình như có lệ, nhưng tinh thần bà đột nhiên phấn
chấn hẳn lên, như vừa có quyết định gì to tát lắm, phấn khích đến nỗi ngực
cũng phập phồng vì thở mạnh, “Ta muốn nói! Con à, ta đã kìm nén suốt ba mươi
mấy năm, ta sợ nếu cứ tiếp tục không nói ra thì ta sẽ phải mang những chuyện
đó xuống mồ mất. Ta không cam tâm một mình lặng lẽ ra đi, lại càng không muốn
mang theo tất cả những vướng bận thế tục, ta muốn có người để giao phó, sau
khi đã giao phó xong hết tất cả ta mới yên tâm mà đi được...”
“Bà, hình như bà mệt rồi, bà nghỉ cho khỏe lại đã rồi hãy nói...”
“Không sao, ta không yếu đến mức như vậy đâu, hãy để ta nói, biết đâu ta lại
thay đổi ý định ngay đấy.” Bà Bối La nãy còn ốm yếu là vậy thế nhưng đột nhiên
như được chích thuốc kích thích, bà suýt nữa là ngồi hẳn dậy, tay bà đặt lên
ngực, cố gắng điều chỉnh tâm trạng cho bình tĩnh lại đôi chút. Bà cười, cứ
cười vậy thôi, như bông hồng đằm thắm mùa hạ. Chưa bao giờ bà đẹp như vậy, gò
má vốn trắng bệch giờ lại hơi hơi ửng hồng, như thiếu nữ chớm yêu gặp được
người yêu đã xa cách lấu ngày, xúc động khó lòng kiềm chế nổi cảm xúc.
Thế rồi bức màn che của thời gian nhẹ nhàng được vén lên, câu chuyện thuộc về
thời đại xa xưa đó lại được mở ra khi màn đêm sắp buông xuống, mỗi trang đều
lóe lên ánh hào quang cổ xưa.
Bà Bối La nói, xuất thân của bà không hề thần kì như mọi người trong phường
bàn ra tán vào, bố mẹ bà đều là những người dân bình thường, thời chiến loạn
cũng từng sống lang bạt nay đây mai đó, hồi còn nhỏ bà cũng cùng bố mẹ chịu
nhiều khổ cực. Kháng chiến kết thúc, bố dạy học ở một trường trong tỉnh thành,
vốn dĩ cả gia đình sống rất yên bình. Khi bà mười bảy tuổi, trông vô cùng xinh
đẹp, lại rất giỏi ca múa. Trong một lần hội diễn văn nghệ đón Tết, tiết mục
của trường bà được chọn, buổi biểu diễn thành công tốt đẹp, có thể nói là nó
đã thay đổi cả cuộc đời của bà. Tiết mục đó là một bài múa “Hoa nhài”, bà là
người dẫn đầu một nhóm thiếu nữ xinh như hoa, cầm giỏ hoa vui múa tung tăng,
trong tiếng nhạc cảm động lòng người, nụ cười của bà thật đúng là nghiêng nước
nghiêng thành. Đến giờ bà vẫn còn giữ một tấm ảnh biểu diễn hồi đó, vẻ đẹp cả
đời chỉ nở rộ trong chính giây phút đó. Vì nở rộ quá, nên mới lại khiến tuổi
thanh xuân của bà lụi tàn quá sớm... bà ngập ngừng nói như vậy.
Buổi biểu diễn kết thúc, mấy người trông có vẻ như lãnh đạo bước lên sân khấu
bắt tay các diễn viên, trong đó có một người đàn ông trung niên đeo kính nắm
tay bà, nắm mãi đến hẳn một phút lận, lại còn chụp ảnh chung với bà. Bối La
ngày đó ngây thơ chẳng thấy gì đặc biệt, dưới ánh đèn mờ ảo của sân khấu, thậm
chí người đàn ông đó trông như thế nào bà cũng không nhìn rõ. Nhưng chính vào
lúc đó, cuộc đời đã bắt đầu bày trận mai phục, khi bà đã bị lọt vào trong đó,
ngoài sự thận trọng và sợ hãi của thiếu nữ thì chẳng còn gì khác. Tất cả mọi
thứ đều không nằm trong tầm kiểm soát của bà, ngay từ khi người đàn ông đó tấn
công bà đã bị chiếm đóng, không một chút phòng bị. Tuổi tác của ông ta cũng
đáng tuổi bố của bà, thế mà lại có được tuổi thanh xuân tươi đẹp nhất của bà,
và cả cơ thể còn đang bó nụ chờ nở của bà.
Để tránh khỏi tai mắt của mọi người, ông ta tìm lý do đưa bà đến Đồng Thành,
sắp xếp cho bà ở trong một dinh thự rất đẹp, chính là Thanh Thủy Đường ngày
hôm nay. Sự chiều chuộng mà ông dành cho bà đúng là đặc biệt, không có lời nào
diễn tả. Khi nỗi sợ hãi được thay thế bởi sự ngưỡng mộ và sùng bái, bà dần dần
bị sự quả quyết của người đàn ông này khuất phục. Nghe nói, người đàn ông này
là một nhà đại tư bản, tổ tiên mở tiệm thuốc, đã từng du học nước ngoài, thế
lực gia tộc rất lớn. Đêm trước của nước Cộng hòa nhân dân Trung hoa thành lập,
vì đã giúp chính phủ xây bệnh viện, phát triển ngành y dược nên cũng dần dần
bước chân vào con đường chính trị, thăng quan tiến chức rất nhanh. Cả gia tộc
hi vọng ông sẽ làm nên thành tựu lớn trong giới chính trị, nào ngờ sự việc bại
lộ, chuyện của ông và bà bị người ta lật tẩy.
Đúng lúc đó Bối La lại mang thai, nếu như mọi chuyện bị vạch trần thì tiền đồ
của ông coi như tiêu tan hết. Thế nên gia tộc nhà họ yêu cầu bà phải bỏ đứa bé
đi, bà không đồng ý, kiên quyết đòi sinh ra. Nhưng một người con gái yếu mềm
làm sao đối phó được với cả một gia tộc lớn như vậy, bà bị bắt ép đến bệnh
viện phá thai, khi đó thai nhi đã được tám tháng, trong quá trình giằng co, bà
bị động thai phải vội vàng đưa đến bệnh viện. Kết quả đứa bé bị sinh non, bà
cũng mất quá nhiều máu, suýt nữa thì ngay đến cả mạng sống cũng không giữ
được. Sau khi xuất viện, bà lập tức bị điều đi ngoại tỉnh.
“Cả đời ta cũng vẫn nhớ tình cảnh ngày hôm đó, người nhà bọn họ đến rất đông,
lôi ta đến bệnh viện, bất kể ta có khóc, có van xin thế nào cũng vô ích. Đã
hơn tám tháng rồi, đứa bé cũng đã sắp sinh ra rồi mà họ cũng không chút động
lòng, tàn nhẫn giết chết đứa con ngay trong bụng ta. Ngay đến mặt con ta cũng
không được nhìn thấy, chỉ biết nó là một đứa con trai... Đáng hận là, sự việc
từ đầu đến cuối ta không hề nhìn thấy ông ấy, sự lẩn tránh của ông ấy chính là
ngầm bị khuất phục bởi chuyện này rồi. Mấy chục năm đã qua, ta vẫn hay mơ thấy
đứa con đang khóc, duy nhất là không mơ thấy hình dáng con thế nào...”
Nói đến đây bà dường như đã lấy hết sức bình sinh, khuôn mặt đầy những nếp
nhăn đã tràn trề nước mắt. Thật khó mà tưởng tượng được, một con người đã phải
chịu đựng nỗi đau thương suốt ba mươi mấy năm trời thì dằn vặt đến thế nào!
Nỗi đau đó sẽ không bao giờ mất đi theo dòng chảy của năm tháng, bà nghiêng
người cúi mặt xuống nức nở. Diệp Quán Ngữ ngồi xuống bên giường vỗ vai bà, bà
xua tay, lại nói tiếp: “Đừng lo cho ta, nói ra được là tốt rồi, đã chôn vùi
trong lòng suốt hơn ba chục năm trời, giờ thì cuối cùng cũng giải thoát được
khỏi lòng. Nếu không lại phải mang theo xuống dưới mồ, làm sao ta yên nghỉ
được.”
“Vậy sau đó thì sao?” Diệp Quán Ngữ không muốn hỏi, nhưng lại rất tò mò muốn
biết.
“Sau đó, sau đó... Cách cũng khoảng mười năm sau đó, cha ta qua đời, ta mang
tro cốt của cha ta về tỉnh thành mai táng cũng không biết bằng cách nào mà ông
ấy biết được chuyện này mà tìm thấy ta... Khi đó, ông ấy đã là một quan chức
cao, thân phận hiển hách, ông ấy sám hối với ta, nói khi xưa cũng là do không
thể làm chủ được bản thân, làm sao ta nghe cho lọt tai được chứ... Nhưng ta
lại không thể nào rời khỏi tỉnh thành được, vì mẹ ta cứ kiên quyết không chịu
đi, bà muốn ở lại bầu bạn với cha ta. Con người ta một khi đã già rồi thì chỉ
muốn lá rụng về cội mà thôi. Hai năm sau mẹ ta cũng qua đời, không lâu sau,
‘Cách mạng văn hoá’ nổ ra, ông ấy phải chịu đả kích vì vốn xuất thân là một
nhà tư bản, ta cũng bị liên lụy, bị Hồng vệ quân bắt lôi đi biểu tình. Sau khi
ông ấy biết được tình hình liền thức trắng đêm phái người đưa ta đến Hồng
Kong, rồi lại chuyển đường đưa đi Pháp. Đến Pháp rồi ta mới biết, thực ra phần
lớn gia sản gia tộc nhà họ đều ở nước ngoài... Ta sống một mình ở Pháp, không
hề rõ tình hình trong nước, chỉ biết là gia tộc bọn họ phải chịu đả kích rất
lớn, ông ấy đã không thể cố gắng đến phút cuối, và đã qua đời vào thời cuối
của cuộc ‘Cách mạng văn hóa’. Đêm trước khi ông ấy qua đời còn gửi cho ta một
bức thư, phó thác cho ta rất nhiều chuyện, hi vọng kiếp sau sẽ đến bù đắp
những gì ông ấy đã nợ ta...”
“Đã bao năm rồi, ta sống một mình ở Pháp, bên cạnh còn có cả một lũ người vây
quanh, nhưng sao ta luôn có cảm giác cô đơn đến thế... Ta cũng đã hạ quyết tâm
lớn lắm mới về nước xem thế nào. Thanh Thủy Đường vẫn bộ dạng như ngày xưa,
vừa bước vào cái sân này là ta đã biết, ông ấy chưa bao giờ ngủ trong tim ta,
ông ấy vẫn luôn sống mãi... Mỗi hòn gạch ở đây, mỗi viên ngói ở đây đều đã
chứng kiến ân oán giữa ta và ông ấy, hơn ba chục năm đã trôi qua rồi, ngoảnh
đầu lại nhìn, ta phát hiện thứ chống đỡ để ta sống đến được tận ngày hôm nay
thực ra không phải là hận ông ấy, mà là yêu, là yêu! Ta yêu ông ấy, chưa bao
giờ thay đổi cả! Trong dinh thự này, nơi đâu cũng có hình bóng của ông ấy, tối
ngủ, ta luôn nghe thấy tiếng bước chân của ông ấy vọng lại trong đêm, còn cả
tiếng thở dài nữa.
Bỗng nhiên ta hiểu ra, nguyên nhân mà ban đầu khi rời khỏi Trung Quốc vì sao
ông ấy lại khăng khăng đòi chuyển tên dinh thự này sang tên ta. Ông ấy nói,
sớm muộn gì em cũng sẽ trở về, tôi sẽ ở đây đợi em, nhất định em sẽ cảm thấy
được tôi đang ở bên cạnh em, như vậy, em sẽ không còn hận tôi nữa, trăm năm
sau, nơi đây sẽ là phần đất mộ của tôi và em... Lúc đó, khi ta nghe thấy những
lời này, ta khóc đến suýt ngất... Nhưng ta vẫn không muốn được chôn ở đây, cả
đời này ta đã chịu đựng đủ những đau khổ mà ông ấy và gia đình ông ấy đem đến
cho ta, ta muốn ra đi thật nhẹ nhàng, sạch sẽ, kiếp sau ta cũng không muốn
nhận ra ông ấy nữa, cứ coi như là một giấc mộng thật dài thật dài, giấc mộng
này đã kéo dài suốt cả cuộc đời ta, cuối cùng cũng đã đến lúc kết thúc rồi...”
Bà Bối La kể xong câu chuyện này dường như đã thanh thản nhẹ nhõm hơn rất
nhiều, bà cười thư thái, cùng lúc đó tháo chiếc nhẫn đang đeo trên ngón tay
của bà ra, đưa cho Diệp Quán Ngữ: “Con trai, hôm nay ta gọi con đến, chính là
muốn kết thúc một việc cuối cùng, con là người duy nhất đáng để ta tín nhiệm
trên thế giới này, vì vậy xin con hãy nhận lấy cái này, dù thế nào con cũng
phải nhận lấy, sau này sẽ cần dùng đến.”
Đây là một chiếc nhẫn ngọc bích màu xanh biếc, màu xanh bí ẩn, để lộ thứ ánh
sáng mờ gom lại bên trong, đó là thứ ánh sáng lấp lánh đọng lại qua năm tháng,
cho dù là trong căn phòng tối tăm cũng phát ra vầng sáng chói lóa khiến người
ta không dám nhìn thẳng vào. Anh cầm chiếc nhẫn nhìn ngắm rất kĩ, nhìn thấy
mặt trong chiếc nhẫn khắc hai chữ “Bỉnh Sinh”.
“Bỉnh Sinh?” Diệp Quán Ngữ không hiểu nghĩa của nó.
“Đó là tên tự của ông ấy.” Bà Bối La giơ tay lên cho anh xem, “Ban đầu đó là
vật đính ước ông ấy tặng cho ta. Ta không muốn đem xuống mồ, vậy nên quyết
định tặng nó cho con...”
“Không, không, vật quý trọng như vậy làm sao cháu có thể nhận được?” Diệp Quán
Ngữ giật mình, vội đưa lại chiếc nhẫn.
Bà Bối La nói: “Con trai, con nhất định phải nhận lấy! Đây không phải là một
chiếc nhẫn bình thường, mà là một tín vật, giá trị thực của nó không chỉ đơn
giản là giá trị của một chiếc nhẫn thôi đâu, sau lưng nó là cả một tài sản
khổng lồ, lớn đến mức con không thể nào tưởng tượng nổi. Ta giao nó cho con vì
ta cảm thấy con là một người thành thật và chính trực, ta không còn người thân
nào khác nữa, nếu không tìm được người phó thác trước khi nằm xuống thì chiếc
nhẫn này sẽ mất đi ý nghĩa tồn tại của nó, tài sản sau lưng nó cũng sẽ tiêu
tan như mây khói, con có hiểu ý của ta không?”
Diệp Quán Ngữ vẫn có vẻ mù mờ chưa hiểu, bà Bối La liền đặt chiếc nhẫn trong
một cái hộp, nói bằng giọng như ra lệnh: “Nếu con không chịu nhận, thì ta sẽ
chẳng sống được đến khi trời sáng đâu!”
“Bà...” Diệp Quán Ngữ nắm chiếc hộp mà cảm giác nó như thể nặng ngàn cân vậy,
không dám tùy tiện gật đầu.
“Đừng từ chối nữa, nếu không ta sẽ trách con đấy. Dưới đáy cái hộp này có một
địa chỉ, đến khi nào con cần được giúp đỡ, thì hãy mang chiếc nhẫn này đến
Pháp gặp ta, cho dù ta không còn trên đời này nữa, thì chỉ cần có chiếc nhẫn
này, nó sẽ giúp con đạt được nguyện vọng của mình, nhớ kĩ lấy, không được để
mất! Nghe rõ chưa?”
Cuộc sống vẫn diễn ra như thường.
Diệp Quán Ngữ còn nhớ, khi đó anh cẩm chiếc nhẫn và suy nghĩ rất nhiều ngày,
anh luôn không hiểu ngoài một chiếc nhẫn ra thì nó còn có thể có ý nghĩa gì
nữa. Nhưng anh nghĩ, nếu đã là đồ bà Bối La tặng thì cho dù nó chỉ là cái nhẫn
cũng phải giữ gìn thật tốt, đây là một sự giao phó và tín nhiệm nặng nề đầy
trách nhiệm! Anh không hề hi vọng chiếc nhẫn này sẽ mang đến kì tích gì cho
tương lai của mình, với cuộc sống của anh bây giờ, mơ ước chính là thứ nhỏ bé
không đáng tiền nhất. Nhưng những lúc đêm khuya vắng lặng, một mình anh lại
thẫn thờ dưới ánh trăng trên mảnh đất hoang ngoài lán công trường, tâm trạng
khó mà bình tĩnh được. Nỗỉ xức động mà bà Bối La mang lại cho anh khiến anh
không bao giờ trở về lại được với sự đơn thuần của ngày xưa, lần đầu tiên anh
thấy cuộc đời con người lại là một chuyện phức tạp đến vậy, một giấc mơ, lại
có thể mơ mãi suốt cả cuộc đời...
Đúng vậy, một giấc mơ có thể mơ suốt cả một cuộc đời.
“Anh, anh đang nghĩ gì vậy?” Không biết Văn Uyển Thanh đã ra từ lúc nào, cầm
cốc cà phê đặt trước mặt anh, Diệp Quán Ngữ giờ mới định thần lại, ngước mắt
lên nhìn cô. Đang trong những ngày xuân ấm áp, Văn Uyển Thanh mặc một chiếc
váy may thêu màu hồng mỏng, chiếc váy rộng thoải mái kiểu Hàn Quốc vẫn không
che đi được cái bụng đang hơi nhô lên. Ánh mắt của Diệp Quán Ngữ dừng lại trên
cái bụng của cô, “Mấy tháng rồi?”
“Gần bốn tháng.” Văn Uyển Thanh bất giác xoa xoa bụng.
Diệp Quán Ngữ mặt tỉnh bơ: “Em định sinh nó thật à?”
Văn Uyển Thanh vừa nghe vậy liền cuống cả lên, cô hiểu Diệp Quán Ngữ nhất, khi
mặt anh tỉnh bơ chính là lúc anh đáng sợ nhất, một ánh mắt thiếu thận trọng
cũng có thể dồn người ta vào chỗ chết. Lức này, ánh mắt của anh lạnh đến nỗi
khiến người ta khiếp sợ. Văn Uyển Thanh vô cùng sợ hãi, theo bản năng, cô lùi
lại phía sau: “Anh, anh hãy tha cho đứa bé này đi, nó vô tội nó là con của em,
em sẽ không để nó mang họ Lâm đâu...”
“Nó không mang họ Lâm thì không phải là con cái nhà họ Lâm sao?” Diệp Quán Ngữ
cầm cốc cà phê lên, trên mặt không một chút xúc cảm, vẫn không nhìn ra được
một chút manh mối gì. Nhưng đôi mắt anh đã hơi nheo lại, ánh mắt vô tình hay
hữu ý nhìn vào bụng của Văn Uyển Thanh, đây thực sự là một tín hiệu nguy hiểm.
Mỗi khi anh nheo mắt nhìn ai đó, đa phần là người đó sẽ gặp rắc lối, Văn Uyển
Thanh bước lên phía trước, “phịch” một tiếng, quỳ xuống trước mặt anh: “Anh,
em biết anh rất không vui, nhưng ngoài đứa con này ra, em đã không còn gì nữa
rồi, bao năm qua, thực ra chẳng có gì thuộc về em cả,.,”
“Em thật là ngang bướng!” Diệp Quán Ngữ vung tay, cốc cà phê văng ra xa, vỡ
tan tành, “Chỉ tại tôi nuông chiều quá nên em mới đâm hư ra thế này! Em có đầu
óc suy nghĩ hay không vậy, sinh một đứa trẻ ra, để nó không có bố, như thế có
phải là thái độ chịu trách nhiệm không? Ngày xưa em có vượt quá giới hạn đến
thế nào tôi cũng đều có thể nhân nhượng được, ban đầu em lấy Lâm Hy, rồi cuối
cùng lại diễn kịch giả thành thật, tôi cũng đã dung nạp em rồi, nhưng em lại
muốn sinh đứa con của hắn ra, em đặt tôi ở đâu vậy, hả? Em đừng quên, em là
người đàn bà của tôi, thế mà lại sinh con cho gã họ Lâm đó, em tưởng rằng tôi
sẽ cho phép sao?”
“Anh...” Văn Uyển Thanh ôm lấy chân anh, òa khóc, “Không phải là em không muốn
báo thù cho anh, nhưng đến mãi phút cuối, em mới phát hiện ra rằng, tình yêu
mãi mãi quan trọng hơn cả thù hận, chính là tình yêu khiến em sống được đến
ngày hôm nay. Em yêu anh ấy, cho dù em cũng hận anh ấy... Mà chính nhờ đứa bé
này khiến em hiểu được thế nào là yêu, nó chính là tất cả hi vọng còn lại của
em...”
Diệp Quán Ngữ bỗng thất thần trong giây lát, “Lại là yêu...”
“Bao năm qua anh như một người anh trai, luôn chăm sóc, yêu thương em, là anh
đã cho em cuộc sống được ăn ngon mặc đẹp, còn đưa em đi nước ngoài du học,
nhưng anh ơi, anh hãy tự hỏi lại mình xem, thứ mà anh cho em là tình yêu sao?
Anh yêu em sao? Em chẳng qua chỉ là vật thay thế mà thôi, một thứ để gửi gắm,
bởi trong em có hình bóng của người con gái trong tim anh, anh nuông chiều em
như thể em là cô ấy... Em đã nhận ra từ lâu rồi, rất nhiều năm trước, khi lần
đầu tiên em nhìn thấy bức ảnh của Thư Mạn trong ngăn kéo bàn. của anh, em mới
bỗng nhiên tỉnh ngộ. Nhưng em không nói ra, bởi em sợ anh sẽ ruồng bỏ em...
Sau này dần dần lớn lên, em không muốn cả đời làm một vật thay thế nhỏ bé đáng
thương như thế, em muốn có một tình cảm thuộc về chính bản thân mình, cho dù
là phải rời xa anh dưới hình thức là đi báo thù, em cũng nguyện mỉm cười bước
đi vào nơi nguy hiểm. Thực ra, tìm Lâm Hy báo thù, nói cho cùng cũng chỉ là
mượn danh nghĩa thế thôi, em chỉ muốn rời xa anh, em sợ sau này chết rồi, em
sợ trên bia mộ của em sẽ khắc tên một người phụ nữ khác không phải là em. Điều
đó thật đáng sự! Cũng thật đáng thương! Thế rồi em lấy Lâm Hy, khi đó em đã có
dự cảm em sẽ yêu anh ấy, cũng rất kỳ vọng rằng anh ấy có thể cho em tình yêu,
nhưng sự việc lại không như người ta mong muốn, em vẫn không thể có được cái
mà em khao khát... Đứa bé, chỉ có đứa bé này mới là thứ duy nhất em có được,
cũng là chỗ dựa duy nhất của em trong quãng đời còn lại, anh, xét vì bao năm
qua em đã ở bên anh, bầu bạn cùng anh, xin anh đừng cướp đi đứa bé này của em,
em xin anh, anh ơi...”
Diệp Quán Ngữ không nói gì, vung tay bước đi.
Mặc cho Văn Uyển Thanh có gào khóc thế nào, anh cũng không thèm ngoái đầu nhìn
lại.
Ra khỏi cổng dinh thự, Lữ tổng quản lập tức ra mở cửa xe cho anh. Lên xe, dè
dặt hỏi anh: “Ngài có gì dặn dò không ạ?”
Ý ông là, anh dự định xử lý đứa bé trong bụng Văn Uyển Thanh thế nào.
Diệp Quán Ngữ vẫn còn bực mình không chịu nổi, xẵng giọng: “Để xem đã.”
“Vâng.” Lữ tổng quản đành gật đầu, nhưng do dự một lúc, vẫn nói thêm một câu:
“Có điều, Quán Ngữ, thường thì chuyện gì cũng tốt nhất là đừng để lại hậu
họa...”
“Hậu họa?”
“Đúng vậy, thằng bé được sinh ra rồi, dòng máu chảy trong người nó là máu của
nhà họ Lâm.”
Diệp Quán Ngữ sao mà thông minh thế, vừa nghe vậy đã phì cười: “Ý ông là, sau
này khi lớn lên, nó sẽ tìm tôi để báo thù hả?”
“Chúng ta không thể bỏ qua mối lo ngại này.”
“Không phải là lo ngại, mà là tuyệt đối sẽ có khả năng này!” Diệp Quán Ngữ
cười phá lên, “Vậy thì tôi phải để cô ấy sinh đứa bé này ra mới được, tôi muốn
xem xem, sau này cái giống lai này sẽ tìm tôi để báo thù như thế nào đây. Thú
vị, thú vị quá đi chứ! Đời người là những kiếp luân hồi không ngừng, tôi tiêu
diệt nhà họ Lâm, rồi lại để lại cho họ một cái gốc, sau này khi tôi đến độ
tuổi của Lâm Sỹ Diên nhất định sẽ rất cô đơn, có lẽ sau này, cái giống tạp lai
này sẽ trở thành đối thủ cạnh tranh thú vị trong những năm tuổi già của tôi.
Sống đến già, đấu tranh già, vậy mới không uổng sống một đời chứ, ha ha ha...”
“Quán Ngữ...”
“Thôi, thôi, chuyện này cứ quyết như thế đi. Mấyngày nữa mang chút đồ dinh
dưỡng đến, bố trí ổn thỏa đời sống cho Uyển Thanh, để cô ấy sinh ra một thằng
nhóc mũm mĩm khỏe mạnh đợi sau này tôi già còn chơi với tôi.” Diệp Quán Ngữ
mỉm cười nheo mắt lại, đáy mắt lại vô cớ trào lên một đám sương, họng như bị
một vật gì chặn lại, giọng anh thoát nhiên trở nên khàn đục, “Cuộc đời này vốn
tôi đã không muốn sống nữa rồi, định sẵn là sẽ già và cô đơn cho đến lúc chết,
không có người yêu, không có người thân, củng không có bạn bè, chỉ có kẻ
thù... Nếu đã không thể có tình yêu, vậy thì hãy để người ta hận tôi đi, đây
cũng là một cách để người ta nhớ đến mình. Chú Lữ, chú nói có phải không?”
Lữ tổng quản bỗng chốc nghẹn ngào: “Quán Ngữ, cậu nói vậy sao, cái thằng con
trai này...”
“Cảm ơn chú, chú Lữ, trên đời này chỉ có chú gọi tôi là ‘con trai’ thôi.” Diệp
Quán Ngữ mệt mỏi ngẩng mặt lên, chỉ trước mặt Lữ tổng quản anh mới thi thoảng
thể hiện cảm xúc thật của mình ra, “Lúc bà Bối La còn sống, thi thoảng bà ấy
cũng gọi tôi là ‘con trai’. Sau khi bà ấy ra đi, tôi mới thực sự cảm nhận được
thế nào là cô đơn không nơi nương tựa. Ngay từ đầu tôi đã biết, có lẽ đến cuối
đời tôi cũng không có được thứ mà tôi muốn có, quả nhiên là vậy, nhớ thương cô
bé đó suốt mười mấy năm trời, cuối cùng cô ấy lại yêu người khác...”
Câu nói ấy khiến Lữ tổng quản như sực nhớ: “À, đứng rồi, vừa mới nhận được tin
tức, cô Thư Mạn...” Lữ tổng quản nói đến đó thì ngập ngừng, vế tiếp sau đó
không biết nói thế nào.
“Cô ấy làm sao?”
“Vào viện rồi, bệnh tim đột nhiên tái phát.”