Quy Nguyên Mật Tập


Người đăng: tranvanduy119

Mã Quân Vũ tuy thấy chuyện hơi khác thường nhưng không dám hỏi, cúi chào Huyền
Thanh đạo sư rồi lui gót ra phòng đơn.

Ngô Không hòa thượng đang ở ngoài đại điện, chỉ dạy Thanh Loan luyện môn huyền
công, bỗng thấy Mã Quân Vũ bước ra chuyển lời mời của Huyền Thanh đạo sư, ông
vội vã bảo Thanh Loan cũng ra ngoài luyện kiếm với Quân Vũ, rồi cất bước vào
đại sảnh.

Vừa bước vào đã thấy đạo sư đang trải bức họa bằng vải lên bàn, một bên có
thắp cây nến sáng rực.

Nhìn vào bức họa đó Ngô Không hòa thượng giật mình, vì thoáng thấy trên góc
tấm vải có viết ba chữ lớn, đã bạc màu :

“Tạng Chánh đồ”. Bên dưới lại có ghi hai câu thơ, mà lại không phải thơ :

“Vạn công giai nguyên mật, nhất kiếm thần châu hàn.

Già tùng sư minh nguyệt, thạch thượng lưu thanh toàn”.

Bức họa chỉ vẽ sơ ba cụm núi và mấy cây tùng già, đặt biệt là trên có một dòng
suối chảy ngoằn ngoèo biến mất vào một cái hố sâu. Trong cái hố sâu ấy không
thấy đáy chẳng biết có gì bí hiểm bên trong.

Huyền Thanh đạo sư đưa mắt nhìn Ngô Không hòa thượng rồi mỉm cười nói :

- Tấm “Tạng Chánh đồ” này là một đệ nhất bảo vật trong võ lâm. Đã hơn một
trăm năm nay, vì việc đi tìm kiếm bản tạng đồ này mà không biết bao nhiêu
giang hồ cao thủ đã bỏ mạng. Nay tôi không có công gì mà lại được...

Ngô Không hòa thượng hỏi :

- Tôi được nghe trong giới võ lâm thường nói “Tạng Chánh đồ” về việc “Quy
Nguyên mật tập”, nhưng tôi chỉ biết qua loa, không rõ nguyên ủy thế nào. Đạo
trưởng là người trong “Côn Luân tam tử” danh tiếng mấy mươi năm trên giới
giang hồ, kiến thức lại rộng, chắc có lẽ đạo trưởng hiểu nhiều về việc ấy.

Huyền Thanh đạo sư đôi mắt đăm chiêu, thở dài một tiếng, rồi thong thả đáp :

- “Nói đến “Quy Nguyên mật tập” phải nhắc lại câu chuyện ba trăm năm về
trước.

Lúc đó, vào thời võ lâm cực thịnh, trên giang hồ chia ra làm chín phái võ danh
tiếng, trong đó có hai phái Thiếu Lâm và Võ Đang là mạnh nhất, thu dụng đệ tử
rất nhiều. Còn các phái như Hoa Sơn, Côn Luân, Điểm Thương, Không Động, Thanh
Thành, Thiên Long, Nga My đều thuộc vào bậc nhì cả. Ngoài chín phái võ có tên
tuổi ấy còn có nhiều môn phái khác tuy võ công cũng đặc dị, nhung không thể
nào bì lại chín phái trên. Bấy giờ, trong các phái võ đều nổi lên những kỳ tài
độc đáo, mỗi môn chiếm một ưu thế võ công, tranh tài liên miên không lúc nào
dứt. Các vị Chưởng giáo trong chín phái lại hẹn nhau tổ chức một cuộc đấu kiếm
trên Thiếu Thất sơn để chọn lấy một đệ nhất võ công, và xếp hạng cho các phái.

Hôm đó là một ngày xôn xao nhất trong giới giang hồ, số người đến dự đông
không thể tả. Các tay có võ công đến để tranh đấu đã đành, những người chuộng
võ thuật cũng đến đó xem, thật là một cuộc họp mặt vô tiền khoáng hậu.

Trước ngày tỉ thí, họ mở những bữa tiệc rất linh đình tại Thiếu Thất sơn, ăn
uống vui chơi tại đó”.

Ngô Không hòa thượng chắc lưỡi xen vào :

- Ồ, như thế ngày ấy chắc vui lắm nhỉ!

Huyền Thanh đạo sư gật đầu kể tiếp :

- “Ngày tỷ võ, mỗi phái lựa ra ba tay cao thủ nhất, và lần lượt đấu với nhau
để phân định thắng bại. Chín phái đánh với nhau trong bảy ngày đêm, kẻ bị chết
người bị thương cũng nhiều.

Phái Hoa Sơn, Điểm Thương, Không Động và Thiên Long bị thua trước nhất. Còn
lại năm phái Thiếu Lâm, Võ Đang, Côn Luân, Thanh Thành và Nga My phải quyết
đấu trở lại. Những người được tuyển vào dự đấu là những tay tinh anh đặc dị
của mỗi môn phái, cho nên mỗi người bị thương hoặc chết là không biết bao
nhiêu tuyệt kỹ trong phái ấy bị thất truyền...”

Ngừng một lúc, đạo sư buông một tiếng thở dài.

Ngô Không hòa thượng nóng lòng hỏi :

- Kết quả trận đấu đó phái nào thắng?

Huyền Thanh đạo sư mỉm cười, nói :

- “Nếu cuộc đấu ấy mà phân định được thắng bại, phân định được ngôi thứ, thì
tuy có một số anh hùng võ lâm thiệt mạng, nhưng cũng có thể tạo được mối ôn
hòa cho các phái võ sau này rồi. Khổ thay, trong lúc năm phái kia đang tranh
hùng thì bỗng nhiên dưới núi xuất hiện một kỳ nhân. Kỳ nhân đó có tên là Ngọc
Long chân nhân. Thấy ngũ đại tông phái chém giết nhau quá ác. Ngọc Long chân
nhân tỏ lời khuyến dụ họ thôi đấu, và nên giữ hòa khí với nhau.

Nhưng đã hơn một trăm năm trước đó, các môn phái đều lục đục với nhau về tài
năng danh dự, đâu chịu nghe lời Ngọc Long chân nhân, họ vẫn tiếp tục giao đấu
như thường.

Ngọc Long chân nhân thấy khuyên giải không được, liền đứng ra thách các phái
giao đấu với ông ta. Năm phái võ đang tranh hùng thắng phụ, bị Ngọc Long chân
nhân đến thách thức như thế, họ cho rằng Ngọc Long chân nhân đã khinh rẻ môn
phái họ, nên họ họp nhau đánh với Ngọc Long chân nhân.

Ôi! Vì danh dự mà cuộc trận đấu vô cùng ác liệt. Ngọc Long chân nhân chỉ dùng
hai bàn tay không mà địch cả các tay cao thủ trong năm phái.

Qua năm trăm hiệp, chân nhân đã đánh bại cả năm phái, và được mọi người tôn là
“Thiên hạ võ công đệ nhất”.

Các phái bị thảm bại, không ai còn nghĩ đến việc tranh giành ngôi thứ nữa, vì
vậy cuộc hội kiến nơi Thiếu Thất sơn nửa chừng bỏ dở”.

Ngô Không hòa thượng gật đầu nói :

- Như vậy Ngọc Long chân nhân đã làm một việc có ích trong đời. Chính nhờ ông
mà các phái võ không còn tranh tài chém giết lẫn nhau.

Huyền Thanh đạo sư lắc đầu nói :

- “Cuộc đấu kiếm tuy tạm ngưng, nhưng các môn phái không vì vậy mà bỏ ý định
tranh giành ngôi thứ. Họ nghiên cứu, tập luyện ráo riết về đặc môn của mỗi
phái, thậm chí họ còn bí mật phái đồ đệ từ môn phái này qua nhập môn phái kia
để khai thác những đặc dị võ công của phái đối thủ, tìm cách khắc phục, hy
vọng cuộc hội kiếm lần thứ hai họ sẽ tranh hùng.

Do đó, việc thu nhận đồ đệ của các phái trở nên thận trọng vô cùng, họ đề
phòng đồ đệ các môn phái khác xen vào học lén võ công. Việc tranh đấu ngấm
ngầm này cứ âm ỉ mãi không chấm dứt, khổ cho các vị Chưởng giáo của các phái
không ai dám truyền dạy những tuyệt kỹ của môn phái mình cho đồ đệ cả. Nếu có
truyền thì họ chỉ lựa một hai người nào được gọi là trung thành tín nhiệm nhất
của phái họ mà thôi”.

Ngô Không hòa thượng thở dài, than :

- Như thế thì các đệ tử sau này bị thất truyền, và ngành võ học đi đến chỗ
lụn bại rồi.

Huyền Thanh đạo sư nói :

- Qua mấy mươi năm gần đây, vì sự truyền dạy thêm thận trọng như thế nên
ngành võ học bị thu hẹp phần nào. Nhưng không phải vì thế mà năng lực võ công
các phái kém sút đâu. Mỗi phái có một nhóm nhân tài, và họ gia tâm nghiên cứa
võ học, bản lãnh của họ còn uyên thâm gấp mấy lần tiền nhân. Bằng chứng là sau
cuộc đấu kiếm ở Thiếu Thất sơn, những đặc nhân các phái xuất hiện rất nhiều.
Có điều là công phu đặc dị chỉ gồm trong một số ít người, không phổ biến như
thời xưa.

Ngô Không hòa thượng nghe đến đấy chắp tay niệm Phật và nói :

- Ôi! Loài người chỉ vì óc tranh địa vị mà phải bỏ phí bao nhiêu sức lực, đắm
mình trong mưu này chước nọ để chém giết nhau! Khổ thay!

Huyền Thanh đạo sư mỉm cười nói :

- Việc tranh đấu chém giết nhau là điều hại, nhưng chính nó cũng có cái hay.
Cứ lấy phái Côn Luân của tôi ra mà nói thì sau trận đấu kiếm tại Thiếu Thất
sơn, các vị trưởng lão tiền nhân trong phái mới khổ tâm nghiên cứu, đem hết
tâm lực ra luyện được hai môn “Phân Quang kiếm pháp” và “Thiên Cang chưởng”.
Nhưng về phần “Truy Vân thập nhị kiếm” mới là cái tinh hoa của bộ “Phân Quang
kiếm pháp” thì lại cấm tuyệt không cho phép truyền dạy lại các đệ tử.

Ngô Không hòa thượng nói :

- Như thế thì “Truy Vân thập nhị kiếm” bị thất truyền rồi sao?

Huyền Thanh đạo sư nói :

- Trong phái Côn Luân chỉ có tôi và hai vị sư đệ sư muội tôi biết phần tinh
hoa ấy. Nhưng việc truyền thụ lại cho đệ tử thì đồ đệ ấy phải được sự đồng ý
của cả ba chúng tôi mới truyền dạy. Nhưng hôm nay tôi đã phá bỏ lời ước đó
rồi. Tôi đã quyết định dạy “Truy Vân thập nhị kiếm” cho Mã Quân Vũ. Thằng bé
này tư chất thông minh, tuy cơ mưu lanh lẹ, nhưhg lại rất trung thành. Trong
mười hai năm qua, tôi đã truyền dạy cho nó hết các võ công căn bản của phái
Côn Luân rồi, nay truyền thêm bí quyết “Truy Vân thập nhị kiếm” nữa là hết.

Ngô Không hòa thượng ngạc nhiên hỏi :

- Tuy đạo trưởng có lòng ái mộ Mã Quân Vũ, muốn truyền bí quyết ấy, song Côn
Luân tam tử của đạo trưởng đã có lời giao hẹn rồi, nếu đạo trưởng phá ước ngày
sau phải trả lời sao với hai vị kia?

Huyền Thanh đạo sư cười lớn, tiếng cười làm rung chuyển cả căn phòng. Ánh nến
chập chờn xao động trước gió.

Ngô Không hòa thượng thấy nét mặt Huyền Thanh đạo sư hớn hở tươi vui như thế,
chưa hiểu ý gì, toan hỏi, thì Đạo sư đã tiếp lời :

- Tôi sở dĩ phá ước của phái Côn Luân cũng vì tấm “Tạng Chánh đồ” này. Nó có
một lai lịch lạ lùng.

Huyền Thanh đạo sư ngừng một chút rồi nói tiếp :

- Sau khi các cao thủ trong ngũ phái tạm đình chỉ việc đấu kiếm so tài ở
Thiếu Thất sơn thì Ngọc Long chân nhân có răn dạy một lời: “Không có ai là anh
hùng thiên hạ, mà cũng chẳng có môn phái nào đệ nhất giang hồ. Nếu các ngươi
còn tranh giành địa vị, ta quyết không tha”. Câu nói ấy tuy Ngọc Long chân
nhân muốn thiên hạ thôi chém giết, nhưng kỳ thực lại là một cái khổ di lưu cho
hậu thế. Bởi vì chính tài năng và địa vị Ngọc Long chân nhân lúc đó ai cũng mơ
ước.

Ngô Không hòa thượng hỏi :

- Câu nói ấy có ý gì mà lại để khổ cho hậu thế?

Huyền Thanh đạo sư cười hà hà :

- Ý chân nhân muốn nói: “Thiên hạ chi đại vô kỳ bất hữu”. Trong đời người
giỏi còn có người giỏi nữa, thế thì có ai giỏi đâu mà tranh. Như vậy cái giỏi
của ông ta chưa phải là đã giỏi.

Ngô Không suy nghĩ một lúc rồi hỏi vội :

- Ngọc Long chân nhân lai lịch thế nào, và theo võ thuật của môn phái nào?

Huyền Thanh nói :

- Không ai hiểu rõ tông tích của chân nhân cả. Chính trước ngày đấu kiếm ở
Thiếu Thất sơn cũng chẳng một ai trong giới võ lâm nghe đến cái tên Ngọc Long
bao giờ. Tuy nhiên, sau này được người đời truyền tụng rằng chân nhân đã may
mắn tìm được một quyển dị thư về võ công của tiền nhân, và tự luyện lấy. Do
đó, võ công chân nhân đã đến bực siêu phàm nhập hóa. Về võ thuật trong các
phái võ lâm đối với chân nhân chỉ là một hạt cát trong bãi sa mạc, có nghĩ lý
gì?

Ngô Không hỏi :

- Đã có một võ công cao như thế mà còn tự nhiên quả là một vị thánh. Nhưng
tại sao chân nhân đã nói là “trong thiên hạ không có ai là đệ nhất anh hùng”,
mà còn nhận lấy chức ấy.

Huyền Thanh nói :

- Thì trong giới võ lâm gắn cho chân nhân chức vị ấy, rồi cứ gọi nhau thế
biết làm sao? Mà cũng vì cái địa vị gắn cho ấy mới xảy đến một tai hại cho
chân nhân sau này.

Ngô Không hòa thượng ngơ ngác hỏi :

- Tai hại gì vậy?

Huyền Thanh đạo sư nhíu mày nói :

- “Ngọc Long chân nhân chinh phục các phái được ba năm, tiếng tăm đệ nhất võ
công chấn động khắp giang hồ, thì một hôm có một vị sư nữ trong hàng sa môn đệ
tử, pháp hiệu là Tam Âm, từ xứ A Nhì Thái Sơn vượt ngàn dặm đi về hướng Đông,
tìm đến Thanh Vân Nghiêm nơi Quát Thương sơn, thách Ngọc Long chân nhân đọ
tài.

Thế là tại Thanh Vân Nghiêm xảy ra một cuộc ác đấu khinh thiên động địa. Võ
công hai người thật đã đến mức xuất thần nhập hóa. Họ đánh nhau suốt ba ngày
đêm, trải hàng năm ngàn hiệp vẫn chưa phân thắng bại.

Đến ngày thứ tư, mỗi người đều dùng thượng thặng nội công đánh nhau. Cho đến
phút chót thì cả hai đều bị nội thương rất nặng. Họ không đánh nhau nữa, đôi
mặt ngồi nhìn nhau để vận công điều dưỡng.

Họ ngồi như thế suốt ngày, và biết mình không còn sống được bao lâu, nên họ
hối hận, từ chỗ thù khích chuyển thành bạn thân.

Cả hai đều không có đồ đệ, nên họ hợp nhau đem hết những tuyệt thế võ công ra
viết thành ba tập sách giấu nơi Quát Thương sơn lấy tên là “Quy Nguyên mật
tập” có nghĩa là ngành võ thuật trong các môn phái chỉ do một nguồn gốc mà ra.

Sau khi hoàn thành tập sách ấy rồi. Hai vị ấy lại vẽ một “Tạng Chánh đồ” chỉ
chỗ chôn giấu sách ấy. Trước đây tôi được nghe thiên hạ đồn rằng tấm “Tạng
Chánh đồ” được đựng vào một chiếc hộp ngọc, chôn cất trên Thanh Vân Nghiêm,
chỗ hai vị đã đánh nhau. Sau đó, hai vị cái thế kỳ nhân này đều chết một lượt
trên Quát Thương sơn cả.

Câu chuyện này lưu truyền trên một trăm năm nay, các môn phái trong võ lâm đều
bỏ công tìm kiếm “Tạng Chánh đồ”. Và “Tạng Chánh đồ” cũng đã lọt được vào tay
các phái võ lâm rồi. Nhưng khổ thay, chưa nói đến “Quy Nguyên mật tập” cứ cái
“Tạng Chánh đồ” ấy mà họ đã cướp giật chém giết lẫn nhau. Người này giật được
vào tay chưa kịp đi lấy “mật tập” thì kẻ khác đoạt mất rồi. Và cứ thế luân
chuyển mãi, không ai đủ thì giờ đi lấy quyển sách quý ấy, chi nghe người ta
chết vì “Tạng Chánh đồ” mà thôi. Nay Trầm Xương chẳng biết nó moi đâu ra tấm
“Tạng Chánh đồ” ấy.

Bọn Giang Nam song quái cũng vì muốn giật tấm “Tạng Chánh đồ” này mới đuổi
theo cố sát Trầm Xương”.

Ngô Không hòa thượng hỏi :

- Nay “Tạng Chánh đồ” đã vào tay đạo huynh, vậy đạo huynh tính sao? Đạo huynh
có tính việc đi tìm “Quy Nguyên mật tập” chăng?

Huyền Thanh đạo sư gật đầu đáp :

- Tôi đem môn “Truy Vân thập nhị kiếm” dạy cho Mã Quân Vũ chính là để chuẩn
bị đem thây chôn vào núi Quát Thương đó. Sở dĩ hơn một trăm năm nay, các phái
tạm thời hòa hoãn với nhau là để tập trung toàn lực vào việc tìm kiếm cuốn
“mật tập” này, bất cứ phái nào tìm được đều có thể gây sóng gió trong giới võ
lâm cả.

Ngô Không đại sư hỏi :

- Về lực lượng các phái thì hiện nay trong giang hồ phái nào mạnh, và phái
nào nhiều cao thủ?

Huyền Thanh đạo sư nói :

- Gần ba mươi năm nay, phái Hoa Sơn chỉnh đốn nội bộ rất nhiều. Từ khi “Bát
Cánh Thần Ôn” tiếp nhận chức Chưởng môn, các tay cao thủ xuất hiện rất nhiều
trong phái ấy. Họ cố rửa cái nhục trong ngày đấu kiếm Thiếu thất sơn thưở xưa.
Tuy nhiên, về lực lượng lại không bằng phái Thiên Long. Phái này có năm tên bộ
hạ là “ngũ kỳ” Hồng, Huỳnh, Lam, Bạch, Hắc là những kỳ nhân trước kia ẩn cư tu
luyện hơn mười mấy năm trời nay kéo ra nhập vào phái Thiên Long hết. Hiện nay
tuy bề ngoài như không thấy gì, kỳ thực bên trong cuộc phong ba sắp nổi lên
giữa các phái. Tôi nghĩ ngày so kiếm tranh hùng lần thứ hai cũng chẳng bao lâu
nữa.

Nói đến đây, Huyền Thanh đạo sư nhìn về phía chân trời xa, như đang dự tính
một cuộc mạo hiểm nào ghê gớm lắm.

Qua một lúc, ông ta quay lại nói với Ngô Không đại sư :

- Kể từ nay “Quy Nguyên mật tập” có quan hệ đến vận mạng của võ lâm. Nếu sách
ấy mà lọt vào tay một đảng dữ thì tai hại trong võ lâm không biết đâu lường
được. Do đó, bản “Tạng Chánh đồ” đã về tay, tôi không thể không lên Quát
Thương sơn tìm sách. Nhưng việc này một mình tôi không làm nên việc. Tôi muốn
rủ đại sư cùng đi, chẳng biết đại sư có vui lòng mạo hiểm chăng?

Ngô Không hòa thượng hỏi :

- Bao giờ thì đạo trưởng khởi hành?

Huyền Thanh đạo sư nói :

- Chỉ trong thời gian ngắn! Tôi dạy xong “Truy Vân kiếm pháp” cho Quân Vũ rồi
thì khởi sự. Xin đại sư cho tôi biết ý kiến.

Ngô Không đại sư cúi đầu ngẫm nghĩ hồi lâu mới đáp :

- Việc này khá quan hệ, đạo trưởng đã có ý ấy lẽ đâu tôi từ chối. Tôi đã sống
ngoài sáu mươi tuổi dẫu có chết cũng chẳng sao, ngặt Thanh Loan còn nhỏ, lại
mồ côi cha mẹ, nó lại có một mối thù huyết hải mà chính tôi có nhiệm vụ phải
giúp cho nó trả mối thù ấy...

Huyền Thanh đạo sư nghe đến đây ngắt lời, nói :

- Việc của Loan nhi tôi đã lo giùm đại sư rồi. Nếu đại sư bằng lòng cho nó
nhập vào phái Côn Luân thì tôi sẽ viết một bức thư đưa nó nhập vào môn hạ của
sư muội tôi. Tôi phải giải quyết gấp việc này, vì Giang Nam song quái bị
thương bỏ chạy, việc “Tạng Chánh đồ” đã bị lộ rồi. Tam Thanh quan không còn ở
được nữa. Chẳng bao lâu, các tay cao thủ giang hồ sẽ tìm đến đây. Trước khi
chúng ta khởi hành phải để cho hai đồ nhi đi nơi khác.

Ngô Không đại sư vuốt râu, cười khà khà :

- Đạo trưởng cho phép Loan nhi được gia nhập vào phái Côn Luân thật là chuyện
đáng mừng cho cháu, lão già này dù bỏ xác ở Quát Thương sơn cũng chẳng dám
tiếc. Có điều là thân thế của Thanh Loan có ảnh hưởng đến một huyết thù. Mẹ
nó, trước khi chết có để lại một huyết thư, muốn nó sau này tự tay trả mối thù
ấy. Việc này tôi không thể giấu với nó mãi được, tôi cần phải nói cho nó biết,
và mối thù ấy khi đã trả thì hẳn là gây phiền phức đến môn phái đạo trưởng,
nếu đạo trưởng định cho nó nhập môn. Tôi phải nói trước cho đạo trưởng biết
như thế.

Huyền Thanh đạo sư nghiêm mặt hỏi :

- Loan nhi có phải họ Lý chăng? Và có phải hắn là cho gái của Lý Quế Sơ
chăng?

Vẻ mặt Hòa thượng hơi biến sắc :

- Sao... đạo trưởng... cũng biết chuyện đó?

Huyền Thanh đạo sư cất tiếng than :

- Mười năm về trước, vợ chồng Lý Quế Sơ bị hại ở Tiềm Sơn, trên giang hồ có
nhiều kẻ biết chuyện đó. Nhưng tôi khuyên đại sư tốt hơn là đừng cho nó biết
chuyện đó sớm. Nếu đại sư cho nó biết sớm chẳng khác nào đại sư hại mạng nó.
Kẻ thù của nó là Bách Bức Phi Kim Hồ Nam Bình đã gia nhập vào phái Thiên Long,
hiện giữ nhiệm vụ Hồng Kỳ phân cuộc, một trong “Ngũ kỳ” lợi hại phi thường.
Muốn trả thù phải chờ cơ hội mới được.

Ngô Không hòa thượng đôi mày cau lại, hai mắt chói hào quang, nói :

- Nếu vậy bần tăng phải ra tay giúp Loan nhi mới có thể đánh với Hồ Nam Bình
được.

Huyền Thanh đạo sư nhếch mép, nói :

- Nếu đại sư đấu với Hồ Nam Bình thì tôi tin chắc đại sư không đến nỗi thất
bại, nhưng điều khó khăn ở chỗ phái Thiên Long mạnh và đông. Người Chưởng giáo
của phái ấy là Tô Bằng Hải, một tay tuyệt xuất quái tài trong võ lâm hiện
thời. Chắc đại sư có nghe việc hắn dùng một cây gậy thu phục “Tứ xú” chứ?

Ngô Không đại sư gật đầu nói :

- Tôi có nghe cách đây ba năm, thiên hạ ca tụng hắn về chuyện đó.

Huyền Thanh đạo sư nói tiếp :

- Xuyên Trung tứ xú là một bọn lục lâm khét tiếng ở trên đường giáp giới miền
Ác và Thúc. Bọn người này có thể liệt vào những tay bản lĩnh nhất trong giang
hồ. Các đệ tử của ba phái Võ Đang, Nga My, Thanh Thành đã nhiều lần vây đánh
chúng, nhưng lần nào cũng thảm bại, các cao thủ của ba phái ấy bị chúng đánh
bị thương mang đầu trở về, không dám bén mảng đến nữa. Thế mà Tô Bằng Hải một
hôm đi qua Ác Tây vô tình chạm phải “Tứ xú”, trong một đêm hắn đã thu phục
được Tứ xú, nhận vào môn phái Thiên Long. Đại sư xem đó thì thấy tên Chưởng
giáo của phái ấy lợi hại đến bực nào. Cứ theo cái đà gôm thâu bọn lục lâm vào
môn phái như vậy thì mười năm nay, có thể nói là phái Thiên Long hùng mạnh
nhất. Theo ý tôi, việc báo thù cho Lý Thanh Loan chưa nên vội. Cứ để cho nó
tập luyện võ thuật đã. Sau này nó là môn đồ của phái Côn Luân, chẳng lẽ nó có
bề nào chúng tôi “Côn Luân tam tử” chịu khoanh tay ngồi nhìn sao?

Ngô Không hòa thượng nói :

- Gần hai mươi năm nay, tôi muốn làm người ngoại thế, xa lánh việc đời, chẳng
ngờ bị một nguyện ước ràng buộc với Loan nhi, chưa thể rảnh tay được. Vậy thì
trước khi cùng theo đạo trưởng lên Quát Thương sơn, tôi xin phép trở về chùa
Huệ Lâm thu xếp công việc đã. Nếu chẳng may bỏ xương trên đó, mà chùa Huệ Lâm
không kẻ nhang khói thì hỏng việc. Ba ngày sau tôi sẽ trở lại đây để dạy nốt
cho đệ tử của đạo trưởng mấy hồi chót trong “Thập bát La Hán chưởng”.

Dứt lời, Ngô Không hòa thượng đứng dậy bái biệt.

Quả nhiên đúng ba ngày sau, Ngô Không hòa thượng trở lại Tam Thanh quan, trong
tay đại sư có cầm thêm một cây đàn trượng.

Rồi trong nửa tháng trời, một sư tăng và một đạo sĩ đã ra công truyền dạy hai
môn “Truy Vân kiếm pháp” và “La Hán chưởng” cho Mã Quân Vũ.

Vì “Truy Vân thập nhị kiếm” là môn kiếm pháp tinh anh nhất trong phái Côn
Luân, Lý Thanh Loan chưa bái biệt vào môn hạ của phái ấy, nên Huyền Thanh đạo
sư chưa thể truyền dạy. Còn “Thập bát La Hán chưởng” thì Thanh Loan đã học hết
từ lâu rồi.

Vì vậy, trong nửa tháng ấy gấp nhất là Mã Quân Vũ, ban ngày tập chưởng, ban
đêm thì tập kiếm.

Kiếm pháp tuy chỉ có mười hai thế, nhưng phức tạp, mỗi thế đánh ra lại có cả
mười hai chiêu biến hóa. Mã Quân Vũ phải cố gắng lắm trong nửa tháng mới thuộc
sơ qua.

Huyền Thanh đạo sư vì gấp lên núi Quát Thương, không đủ thì giờ chờ cho Mã
Quân Vũ luyện thuần thục.

Một hôm, ông cho đòi Mã Quân Vũ và Lý Thanh Loan vào phòng đơn, trao cho Mã
Quân Vũ hai bức thư, và dặn :

- Con theo học với sư phụ đã được mười hai năm rồi, nay cũng nên về thăm cha
mẹ con một lần. Sau đó, con khỏi cần trở lại Tam Thanh quan tìm sư phụ nữa,
con đến núi Côn Luân vào Tam Nguyên cung trao hai bức thư này cho hai vị sư
thúc của con.

Mã Quân Vũ nhận thư xong, quỳ gối trước phòng đơn, bồi hồi ôn lại mối tình sư
đồ trong mười hai năm qua, nay phải xa cách, chàng thấy bùi ngùi đau đớn.

Huyền Thanh đạo sư nói :

- Thế gian này không có cái gì vĩnh viễn. Các cuộc tan họp chỉ như bèo mây.
Đấng trượng phu không nên buồn bã trước những cái nhỏ nhen của thế sự.

Mã Quân Vũ bị khiển trách vội đứng dậy bước sang một bên, vòng tay không dám
nói tiếng nào.

Ngô Không đưa tay vuốt làn tóc xanh của Lý Thanh Loan, âu yếm :

- Đạo trưởng thương con côi cút, không chỗ nương thân, nên đã cho con gia
nhập vào môn phái. Bây giờ con phải đến núi Côn Luân bái sư, rồi ở đó tập
luyện võ công...

Nói đến đây, mặt đại sư đượm vẻ buồn, không còn thốt ra tiếng.

Lý Thanh Loan hoảng hốt, đôi mắt đen lay láy từ từ rướm lệ, liếc nhìn Ngô
Không hòa thượng hỏi :

- Sư phụ! Sư phụ không muốn nuôi con và dạy dỗ con nữa sao?

Ngô Không hòa thượng ôn tồn nói :

- Con được gia nhập vào Côn Luân phái là một vinh hạnh của con sau này. Nay
con đã lớn tuổi rồi, tại sao con chưa biết điều ấy.

Lý Thanh Loan thấy chưa bao giờ nét mặt của sư phụ nàng nghiêm trọng đến thế,
nên không dám nhỏng nhẻo, thỏ thẻ nói :

- Con phải đi một mình lên núi Côn Luân sao? Xin sư phụ dẫn con đến đó.

Huyền Thanh đạo sư mỉm cười nói :

- Sẽ có Mã sư huynh của cháu dẫn cháu đi.

Lý Thanh Loan nghe nói lòng hớn hở, giấu một nụ cười trong đôi dòng lệ, đứng
sang một bên không nói gì nữa.

Huyền Thanh đạo sư tiếp lấy cái gói nhỏ, bọc vải trắng, trong tay Ngô Không
đại sư, trao cho Mã Quân Vũ, và nói :

- Vật này phải cất kỹ, và con phải tận tay trao cho vị đệ tam sư thúc của
con.

Mã Quân Vũ tiếp lấy cất vào bọc.

Huyền Thanh đạo sư lại dặn :

- Con có thể ở trong nhà một tháng rồi mới đến Côn Luân sơn. Trên đường đi
phải để ý săn sóc Lý sư muội của con.

Mã Quân Vũ cúi đầu lãnh giáo. Huyền Thanh đạo sư lại thúc hai đồ đệ lên đường
tức khắc.

Sáng hôm ấy, Mã Quân Vũ và Lý Thanh Loan vừa rời khỏi Tam Thanh quan thì Huyền
Thanh đạo sư đã gọi mấy tên đạo sĩ trong viện đến phòng đơn dặn dò, giao việc
hương đèn trong viện lại, rồi cùng với Ngô Không nhắm phía Nam núi Quát Thương
thẳng tiến.

Còn Mã Quân Vũ và Lý Thanh Loan, sau khi bái biệt sư phụ, dắt nhau ra bờ sông
lấy một chiếc ghe nhỏ, xuôi theo dòng Nguyên Giang mà đi.

Khúc sông đó hẹp, nước chảy rất mạnh chiếc thuyền con chở hai người phóng đi
như tên bắn.

Mã Quân Vũ ngồi ở sau cầm chèo, Lý Thanh Loan đứng trước mũi, đưa mắt nhìn lại
cảnh cũ, thấy rừng mai từ từ nhỏ lại, lòng nàng cảm thấy như phải xa rời một
người thân. Tuy nhiên, chẳng mấy chốc nàng lại nhoẻn một nụ cười, nét vui lẫn
với nét buồn, thật khó phân biệt.

Cho đến lúc rừng mai khuất dạng, nàng mới bước đến ngồi đối diện với Mã Quân
Vũ, hỏi :

- Mã sư huynh, anh đã có lần nào đến núi Côn Luân chưa?

Mã Quân Vũ lắc đầu, đáp :

- Mười hai năm nay, ngoài việc tuân lời sư phụ về thăm song thân hai lần, thì
tôi chưa hề rời khỏi Tam Thanh quan.

Thanh Loan thở dài nói :

- Tôi từ lúc nhỏ đã được sư phụ đem về Huệ Lâm tự nuôi dạy. Mười mấy năm nay
trừ Huệ Lâm tự và Tam Thanh quan ra chưa từng đặt gót đến nơi nào cả. Sư phụ
tôi cũng không cho tôi biết cha mẹ tôi là ai. Tôi nghĩ chắc cha mẹ tôi không
thương tôi là phải, nếu không sao đã mười mấy năm trời, cha mẹ chẳng có một
lần nào tìm đến thăm viếng?

Dứt lời, đôi mắt nàng lắng đọng u buồn, nhìn trời mây, bùi ngùi rơi lệ.

Từng làn gió hiu hiu thổi, tóc nàng phe phẩy, một mùi thơm phảng phất trong
không gian, Mã Quân Vũ ngồi đối diện với mỹ nhân, lòng lâng lâng cảm khoái.

Thấy nàng buồn bã, Quân Vũ muốn tìm lời an ủi, nhưng chàng lựa mãi không tìm
ra một câu nói nào cho phải. Trong lúc đó, chàng vẫn lặng lờ nhìn xuống dòng
sông.

Thanh Loan bỗng nhiên quay đầy lại, thấy thế hỏi :

- Mã sư huynh! Tôi đã nói lời nào vụng về, làm cho sư huynh không vừa ý
chăng?

Mã Quân Vũ nhoẻn một nụ cười, lắc đầu đáp :

- Không, không!

Thanh Loan hỏi :

- Sao sư huynh lại sững sờ như vậy?

Mã Quân Vũ đáp :

- Tôi muốn nói vài lời an ủi sư muội, nhưng không biết lời nào để nói cả.

Thanh Loan vụt cười lên một tiếng. Bao nhiêu nỗi buồn bực trong lòng nàng như
trôi theo dòng nước. Nàng đưa tay lau sạch nước mắt rồi cầm lấy con chèo, bảo
:

- Sư huynh nghỉ tay một lúc, để tôi chèo thế cho.

Mã Quân Vũ không nỡ từ chối lòng sốt sắng của nàng, liền trao lại tay chèo.

Lúc trời gần tối, thuyền đã đến Động Đình hồ. Nơi đây quang cảnh rất nhộp
nhịp. Hàng trăm hàng ngàn cánh buồm nhấp nhô tỏa khói lên cao, những chiếc ghe
đánh cá nối liền nhau, qua lại như mắc cửi. Nhiều cô gái ngồi trước mũi thuyền
vừa vá lưới vừa ca hát véo von, trông rất đẹp mắt, vui tai.

Thanh Loan từ thưở bé đến giờ chưa từng ra khỏi ngôi chùa, nên trông cảnh ấy
rất thú vị. Nàng ghìm tay lái cho chiếc thuyền chạy quanh qua các ghe đánh cá,
rẽ sóng lướt tới như tên, mắt không ngớt nhìn từ người này đến người khác.

Thực ra, nàng đâu có biết, lúc đó có hàng trăm con mắt cũng đang chú ý nhìn
nàng. Họ thấy làm lạ, chẳng biết cô gái từ đâu đến, mặt đẹp như tiên nga, thân
hình kiều diễm mà lại có một sức mạnh phi thường, chèo ghe xoáy nước như vậy.

Đột nhiên, trước mặt nàng có hai chiếc thuyền con rẽ sóng lướt đến rất nhanh.

Khi gần đến nơi thì hai chiếc thuyền đó rẽ ra, một chiếc lách về phía trái,
một chiếc lách về bên mặt, mũi đâm thẳng vào chiếc thuyền của nàng.

Thanh Loan đang vui đùa, đâu có để ý. Lúc trông thấy thì không còn cách nào
xoay trở để tránh né kịp nữa.

Mã Quân Vũ thất kinh, đưa bàn tay ra, vận hết sức mình, nắm lấy đầu mũi thuyền
kia xô mạnh một cái. Chiếc thuyền kia bị dạt ra, nhưng con thuyền của chàng
cũng bị sức đẩy lui lại hơn ba thước, nghiêng sang một bên, một làn nước xoáy
tròn.

May nhờ Thanh Loan vững tay chèo mới giữ được con thuyền khỏi chìm.

Hai chiếc thuyền bấy giờ lại lướt tới trước, cặp kè nhau, rồi vút nhanh như
gió.

Thanh Loan nghe một trong hai chiếc thuyền ấy còn vọng lại một tràng cười hăn
hắt. Nàng tức giận, quay mũi thuyền toan đuổi theo, nhưng Mã Quân Vũ đã cản
lại, nói :

- Thôi! Hay bỏ qua sư muội ạ! Thuyền họ chạy nhanh như thế chúng ta đuổi theo
không kịp đâu!

Thanh Loan cau mày nói :

- Mình không chọc ghẹo gì họ, sao họ lại uy hiếp mình?

Quân Vũ cũng không biết phải trả lời với nàng làm sao, chàng trố mắt nhìn hai
chiếc thuyền kia mỗi lúc một xa dần, rồi thở dài nói :

- Tôi thường nghe sư phụ nói trên giang hồ lắm chuyện trái ngang! Việc này
không đáng kể, chúng mình mau tiếp tục cuộc hành trình là hơn.

Thanh Loan mỉm cười, quạt mạnh tay chèo, nhìn Quân Vũ hỏi :

- Vũ ca! Bây giờ chúng ta đi ngả nào?

Mã Quân Vũ thấy nàng mỗi lúc mỗi xưng hô thân mật hơn, làm cho chàng ái ngại,
nghĩ thầm :

- Nàng đối với mình như có một tình cảm sâu xa. Còn sư phụ mình lại dặn mình
phải chiếu cố nàng. Câu nói sư phụ và tình cảm của nàng có liên quan chăng?
Nếu quả lời nói của sư phụ có một ý nghĩa sâu xa, và lòng nàng đã cảm mến mình
thì thật là chuyện rắc rối! Mình làm sao có thể chiều ý nàng được, vì mình đã
có người yêu rồi.

Chàng trầm ngâm suy nghĩ một lúc, bỗng ngẩng đầu lên thấy đôi mắt đen lay láy
của nàng đang chăm chú nhìn chàng, với khuôn mặt chứa đầy tình ý. Chàng thất
kinh nói lớn :

- A! chúng ta đi về phía Đông. Nếu đêm nay thuận gió thì trưa mai có thể đến
nhà rồi.

Thanh Loan quay chèo, hướng mũi thuyền về phía Đông. Nàng vui vẻ hỏi Mã Quân
Vũ :

- Vũ ca! Nhà anh có mấy người? Chẳng biết bá mẫu có thích tôi không? Tôi từ
nhỏ đã không có mẹ răn dạy, chắc tôi bị vụng về, dại dột lắm.

Quân Vũ ngơ ngẩn nhìn dòng nước chảy xuôi :

- Thân mẫu tôi hiền lắm, chắc là thích cô!

Thanh Loan cười lớn, nói :

- Thật thế sao anh? Nếu vậy tôi phải luôn luôn ngoan ngoãn, không làm cho bá
mẫu giận!

Dứt lời nàng lại cười dòn, thò tay ra ngoài thuyền hốt từng bụm nước ve vẩy
như một đứa con nít.

Động Đình hồ dài hơn năm mươi dặm, nước trong như gương, bọt sóng tung vào bờ
trắng xóa. Thuyền càng đi nhanh, Thanh Loan càng thích thú, nàng đưa mắt nhìn
khắp nơi trong cảnh chiều tà.

Đêm tối lần lần lắng xuống như một tấm mành mành thong thả buông.

Đó đây vài chiếc ghe chài thắp đèn, nhấp nhô ánh sáng rọi xuống mặt nước như
những bầy đom đóm nhảy múa trong không gian.

Mã Quân Vũ không say ngắm phong cảnh như Thanh Loan, chàng dựa lưng vào
khoang, mặt trầm tư ôn lại những niềm tâm sự đang nổi dậy trong lòng chàng lúc
thơ ấu!

Bỗng từ xa, một chiếc ghe lớn giương hai buồm chạy tới rất mau. Bên cạnh chiếc
ghe lớn lại có kèm theo bốn chiếc ghe nhỏ như để hộ tống.

Lý Thanh Loan thấy vậy thò tay vào trong khoang rút hai thanh bảo kiếm, một
cầm tay, một trao cho Quân Vũ và nói :

- Vũ ca, bọn chúng lại đến nữa rồi! Lần này chúng ta không thể nhịn nhục để
cho chúng uy hiếp mình nữa.

Câu nói của nàng vừa dứt, thì bốn chiếc thuyền con đã rẽ sóng lướt tới như
tên, đón đầu chiếc thuyền của Quân Vũ và Thanh Loan. Bốn thuyền ấy dàn thành
hàng ngang, mỗi đầu thuyền xuất hiện một đại hán lực lưỡng, mặc áo quần cụt
ngủn, tướng mạo oai hùng.

Mã Quân Vũ không còn giữ được trầm tĩnh nữa, rút trường kiếm cầm tay, cười
khanh khách hỏi lớn :

- Mã tiểu nhân này với quý vị không hề quen biết, cũng chẳng có thù oán gì.
Vả lại chúng tôi cũng không phải là khách thương lữ, lắm tiền nhiều vàng, quý
vị uy hiếp chúng tôi để làm gì?

Một đại hán đứng ở mũi thuyền thứ hai trạc bốn mươi tuổi, cất tiếng cười ha
hả, đáp :

- Nếu là phú thương hành lữ, chúng tôi đón lại để làm chi? Tôi hỏi quý hữu,
quý hữu là người thế nào đối với Huyền Thanh đạo sư Tam Thanh quan viện chủ?

Mã Quân Vũ giận đỏ mặt, nạt lớn :

- Tam Thanh quan viện chủ là ân sư của ta. Các người hỏi đến với dụng ý gì?

Đại hán đó ngửa mặt lên trời cười hô hố, với thái độ thật khó hiểu :

- Huyền Thanh đạo sư là bậc tiền bối, lừng danh trên giang hồ, đối với đệ tử
của đạo sư chúng tôi đâu dám vô lễ. Vị Tổng biên đầu của chúng tôi chỉ muốn
làm thân với quý hữu để được quý hữu chỉ giáo vài chiêu “Phân Quang kiếm pháp”
mà thôi.

Lời nói nửa nhã nhặn, nửa khiêu khích ấy khiến cho Mã Quân Vũ muốn làm mặt
giận cũng không được nữa. Chàng đáp :

- Kẻ tiểu nhân này mới rời sư môn, quy luật trên giang hồ chưa hiểu rõ. Qúy
Tổng biên đầu muốn hạ giao với tôi, lẽ nào tôi dám không bái kiến.

Đại hán nhìn thẳng vào mặt khen :

- Qúy hữu đáng là một hiệp sĩ trẻ tuổi. Kìa, Tổng biên đầu của chúng tôi đã
đến để hội kiến với quý hữu đó.

Dứt lời đại hán trỏ tay về phía trái. Mã Quân Vũ đưa mắt nhìn theo, thấy chiếc
nghe lớn hai buồm đã đến gần. Cửa ghe mở rộng ra, bên trong ánh đèn chói sáng
rực, bên ngoài hơn sáu tên thủy thủ cao lớn, mặt quần áo xanh, đang ve vẩy tay
chèo.

Chiếc ghe đó vừa đến trước mũi thuyền Quân Vũ thì bên trong, một ông già râu
dài, tóc bạc, ung dung bước ra, chấp tay xá Quân Vũ một cái, và nói :

- Vô cớ, chúng tôi đón thuyền làm mất hứng của khách, thật có lỗi. Vậy xin
mời quý khách sang ghe lớn chúng tôi, đối ẩm vài chung rượu, để chúng tôi đền
lại tội thất lễ này.

Lời nói vừa nhã nhặn, vừa cung kính của ông lão làm cho Quân Vũ ngạc nhiên!
Một người như chàng chưa hề quen biết bao giờ, tại sao đối xử với chàng như
thế?

Chàng không thể lạnh nhạt trước tấm thịnh tình của ông lão, nên quay lại nói
nhỏ với Thanh Loan :

- Hãy đeo bảo kiếm vào mình. Chúng ta cùng sang bên ghe đó xem sao.

Tiếp đó, chàng tung chân nhảy sang chiếc ghe lớn của ông lão. Thanh Loan cũng
nhảy theo không chút chậm trễ.

Lão già râu dài quay sang bảo mấy đại hán trên bốn chiếc thuyền con :

- Chúng bay coi chừng thuyền của quý khách. Nếu có điều gì thất thoát, chúng
bay phải đền tội, nghe chưa?

Bốn đại hán dạ lên một lượt, đưa tay ra trước ngực, gục đầu xá lão già một
cái, rồi những chiếc thuyền con kia lanh lẹ tản mát ra bốn nơi.

Lão già quay lại lễ mễ nói với Quân Vũ :

- Bộ hạ tôi toàn là những đứa cộc cằn, khiếm nhã, nếu chúng có lời gì vô lễ
xúc phạm đến quý khách, xin quý khách bỏ qua cho.

Mã Quân Vũ đáp :

- Vãn bối mới rời khỏi sư môn, quy luật giang hồ chưa am tường, được lão tiền
bối đối đãi thế này thì hân hạnh biết bao. Vậy xin lão tiền bối cho biết cao
danh quý tánh, để tiểu nhân tiện việc xưng hô.

Lão già vuốt râu cười ha hả, nói :

- Lão phu trước đây có một lần gặp mặt sư phụ của quý hữu là Huyền Thanh đạo
sư. Ngày đó đến nay đã hơn hai mươi năm rồi. Tuy nhiên lão phu vẫn chẳng bao
giờ quên, vì chính kẻ bất tài này được mang ơn lệnh sư cứu sống, mới còn trên
thế gian. Nhưng thôi, chuyện đó dài dòng, xin mời hai vị ngồi đây uống vài
chung rượu cho ấm đã.

Mã Quân Vũ và Lý Thanh Loan lúc vừa bước vào ghe, trông thấy lối bày biện rất
lạ mắt.

Giữa khoang có bày một chiếc bàn bát tiên bằng gỗ tử đàn, trên mặt bàn để dủ
thứ hương trà, hoa quả. Hai bên có mấy đứa đồng tử mặc áo xanh đứng hầu.

Ông già đưa tay mời hai người an tọa, và mỉm cười hỏi Lý Thanh Loan :

- Cô nương đây cũng là đệ tử của Côn Luân phái ư?

Thanh Loan trố mắt đáp :

- Sao lại không phải? Tôi và Vũ ca tôi không biết uống rượu. Ông có chuyện gì
cần xin nói mau, chúng tôi có việc cần đi gấp.

Quân Vũ thấy Thanh Loan nói năng thiếu nhã nhặn, lòng không vui. Nhưng ông lão
vẫn tươi cười đáp :

- Tốt lắm! Cô nương là người lanh lợi, ăn nói mau mắn, thật đúng là trang cân
quắc nữ hiệp. Hai vị định đến nơi nào, chúng tôi xin theo hộ tống một quãng.
Như thế không mất thì giờ của hai vị, mà chúng ta có được một cuộc tâm tình
trong lúc đêm thanh.

Mã Quân Vũ ngắt lời đáp :

- Vãn bối đến Nhạc Dương, nhưng quyết chẳng dám phiền lão tiền bối đưa đón.

ông già lắc đầu nói :

- Gió thuận buồm xuôi, có mất công gì đâu?

Vừa dứt lời, ông lão quay đầu ra lệnh cho sáu tay chèo, kéo buồm chạy thẳng về
hướng Nhạc Dương.

Quân Vũ và Thanh Loan cả hai chưa biết uống rượu, nhưng hai tên đồng tử đã rót
mấy chén đưa mời tận tay.

Quân Vũ nói :

- Chúng tôi chưa từng lưu gót trên giang hồ, nên rượu chè chưa biết dùng, vậy
xin thất lễ với lão tiền bối.

Ông già cũng chẳng gượng ép, ngồi xuống nâng chén một mình. Lão uống một lúc
đến mười mấy chung mới dừng tay. Trong lúc nói chuyện ông già cứ mải mê trong
câu chuyện kỳ lạ giang hồ, không đề cập đến câu chuyện chính.

Mã Quân Vũ nóng lòng, không chờ đợi được nữa, cất tiếng hỏi :

- Trước khi lão tiền bối cho gọi chúng tôi sang đây có bảo là chuyện cần
thiết. Vậy xin lão tiền bối dạy cho chúng tôi biết. Chúng tôi xin rửa tai mà
nghe.

Ông lão thở dài một hơi, chậm rãi nói :

- “Lão phu đối với lệnh sư đã thọ ơn cứu mạng, nhưng hai mươi năm qua lão phu
vẫn chưa gặp cơ hội báo đền. Hôm nay, lão phu có nghe đến lệnh sư mới được bức
“Tạng Chánh đồ”. Tin đó đồn ra khắp miền Tương Bắc, và hiện nay các giới võ
lâm kéo đến đây rất đông. Lão phu đoán biết chẳng mấy hôm nữa, trên dòng
Nguyên Giang se có những cuộc ác đấu rợn người để tranh đoạt tấm “Tạng Chánh
đồ” ấy.

Đã mấy mươi năm, tấm “Tạng Chánh đồ” đã là một hiểm họa trên thế gian này. Các
tay võ lâm cao thủ bỏ mình không biết bao nhiêu cũng vì nó. Hai vị là đệ tử
của phái Côn Luân thì không thể nào tránh nổi tai vạ! Về việc này, thực hư thế
nào lão phu cũng chẳng dám quyết đoán, nhưng thực ra, cũng vì tấm “Tạng Chánh
đồ” ấy mà lão phu phải lặn lội đến đây. Vậy xin hai vị mau mau rời khỏi chốn
này là thượng sách. Còn lệnh sư là một bậc hiệp nghĩa lừng danh, tất có đủ mưu
chước để giữ mình.

Hai vị còn non trẻ, đường đời chưa lão luyện, mà trong giang hồ cơ xảo không
biết đâu lường, tốt hơn hai vị đừng bao giờ trổ tài năng của môn phái, để
tránh ra con mắt dòm ngó của mọi người. Khi muốn đạt tới mục đích, người ta
không từ bỏ một thủ đoạn tàn ác nào đâu! Những điều tôi cần nói với hai vị chỉ
có thế thôi, còn việc gặp gỡ lần sau giữa chúng ta chưa biết sẽ là thù hay là
bạn nữa”.

Nói đến đây, ông lão bưng ly rượu uống một hơn cạn chén, rồi thong thả tiếp :

- Tôi đưa hai vị một đoạn đường chỉ là để tỏ chút lòng thành chứ không dám
nói đến chuyện đền ơn cứu mạng của lệnh sư thưở trước. Thật ra, hôm nay không
may mà hai vị không gặp được tôi, mà gặp kẻ khác thì rất phiền phức cho hai vị
đó!

Nghe ông già nói một hồi, Quân Vũ và Thanh Loan vừa sợ, vừa lo.

Quân Vũ nhớ lại thái độ của sư phụ chàng từ nửa tháng nay có vẻ khác thường.

Chàng đoán chừng việc đó có liện hệ đến chiếc hộp ngọc tìm thấy trong thi thể
của vị sư huynh Trầm Xương. Chàng lại nhớ tới vẻ mặt vội vàng nóng nảy của sư
phụ chàng khi chàng và Thanh Loan rời khỏi Tam Thanh quan. Bao nhiêu diễn biến
ấy, chàng cũng có thể đoán lời nói ông lão đúng đến tám phần mười rồi.

Chàng trầm tư một lúc, đôi mày hơi xếch lên, nét mặt cau lại, tỏ vẻ cương
quyết mỉm cười nói :

- Cám ơn lão tiền bối có lòng muốn che chở cho vãn sinh, nhưng việc sư phụ
của vãn sinh có bức “Tạng Chánh đồ” hay không vãn sinh thực không được rõ nên
không dám trả lời. Còn việc cao thủ các phái họp tại Tương Bắc để đối phó với
gia sư tôi, thiết tưởng đó là ý muốn của họ. Vãn sinh từ nhỏ đã được từ huấn
của gia sư, không bao giờ dám ác tâm hại người. Tuy nhiên, đồ đệ của phái Côn
Luân không phải là kẻ tham sống sợ chết. Nếu bất đắc dĩ phải lao đầu vào việc,
thì dù có rừng đao núi kiếm, vãn sinh cũng không sợ. Lão tiền bối vì bản “Tạng
Chánh đồ” mới đến đây, lại lưu vãn sinh trong thuyền này để tâm sự e có điều
bất tiện, vậy xin cho chúng tôi cáo từ.

Dứt lời, Quân Vũ đứng dậy, cúi đầu xá một lễ rồi dắt tay Thanh Loan ra trước
mũi thuyền.

Ông lão cười ha hả nói :

- Mã hiền hữu quả là bậc hào khí trong đời, thực đã được ung đúc trong phong
độ của lệnh sư vậy! Chẳng mấy khi cùng nhau tương ngộ, sao hiền hữu nỡ cự
tuyệt? Nếu không có gì trở ngại thì trưa mai thuyền đã đến Nhạc Dương rồi! Đêm
nay, chúng ta tâm tình, biết đâu sau này sẽ là thù địch. Lão phu ước mong có
cơ hội làm bạn với hiền hữu để hiền hữu chỉ giáo cho môn “Phân Quang kiếm
pháp” môn kiếm đặc dị nhất trên cõi đời này. Dẫu có xem lão phu là bạn hay thù
xin hiền hữu cũng chớ vội, để cho lão phu được hả lòng đưa hiền hữu một thủy
trình cho thỏa mãn lòng già đêm nay...

Nói đến đây, mặt lão già ủ rũ như mang một nỗi buồn thảm sâu xa.

Mã Quân Vũ cảm thông được lòng lão, biết rằng lòng lão lúc này khó xử. Lão vừa
muốn báo ơn cứu mạng ngày trước, lại vừa muốn không trái mệnh giao phó của vị
Chưởng giáo phái Thiên Long. Nhìn vẻ mặt băn khoăn đau khổ của lão, chàng cũng
không nỡ bỏ đi, nên quay vào thuyền, ngồi xuống nói :

- Lão tiền bối đã ân cần lưu khách, chẳng lẽ vãn bối dám thất lễ, vì vậy vãn
bối phải ở lại hầu tiền bối một đêm. Còn việc gia sư vãn bối ngẫu nhiên cứu
tiền bối, đó chẳng qua là chuyện thường trong võ lâm, xin chớ cho là một ân
huệ mà phải lúng túng khó xử. Vả lại nếu tiền bối có vì ân huệ riêng, không nỡ
tra vấn vãn bối bức “Tạng Chánh đồ” thì kẻ khác cũng chẳng buông tha vãn bối
mà. Có điều bức “Tạng Chánh đồ” có lọt vào tay gia sư hay không thì thực tình
vãn bối không được biết.

Ông lão thở dài nói :

- Mã hiền hữu là người thẳng thắn, lời nói rất chí khí. Lão phu không ngờ hôm
nay lại may mắn được gặp một bậc trượng phu trong đương thế.

Ngừng một lúc, ông già lại nói tiếp :

- Dù thế nào lão phu đối với lệnh sư vẫn lấy làm hổ thẹn. Quy luật Thiên Long
bang rất nghiêm mà những người được sai đi không chỉ một mình lão phu. Vậy xin
hai vị nên thận trọng lấy mình.

Dứt lời, ông lão lại nâng chén uống tiếp một hồi. Từ đó, lão không nhắc đến
việc “Tạng Chánh đồ” nữa, mà chỉ nói toàn chuyện kỳ lạ trong giang hồ hiệp
khách.

Thanh Loan ngồi một bên, lắng tai nghe hai người nói chuyện, thỉnh thoảng liếc
mắt nhìn Quân Vũ ngoẻn cười.

Tuy là sơ ngộ, song cuộc nói chuyện không kém thân mật.

Hai buồm giương thẳng, thuyền lướt tới như bay. Chẳng mấy chốc trời rạng đông
thì thuyền cũng đã đến Nhạc Dương.

Ông già tiễn Quân Vũ và Thanh Loan lên bờ rồi quay lại nhìn thì đã thấy bốn
chiếc thuyền con rẽ nước chạy đến như bốn con thoi. Phía sau, một trong bốn
chiếc thuyền, lại có buộc chiếc thuyền nhỏ của Quân Vũ kéo theo.

Đợi cho chiếc thuyền đó áp vào bờ trao trả cho hai người, ông già mới cáo
biệt, và ân cần dặn :

- Hai vị nên khá thận trọng.

Quân Vũ và Thanh Loan chưa kịp nói câu cảm tạ thì ông lão đã nhảy vụt lên
thuyền giương buồm đi mất. Bốn chiếc thuyền con cũng nối tiếp đi theo đàng
sau.

Trong khoảnh khoắc, đoàn thuyền ấy đã khuất dạng trong mây mờ.

Quân Vũ và Thanh Loan kiểm điểm lại những vật dụng dưới thuyền thấy vẫn nguyên
vẹn, không thiếu món nào. Hai người cột thuyền nơi bến, rồi mang hành trang
lên bộ.

Lúc đó, vừa tảng sáng, trên đường quê chưa có bóng bộ hành qua lại. Hai người
dùng thuật khinh công đi rất nhanh. Chỉ chốc lát họ đã vượt qua hơn hai mươi
dặm đường.

Trước mặt họ là một thôn trang nhỏ, núi xây ba mặt, phía trước có một dòng
suối nước trong veo chảy róc rách. Bên mặt, gần suối có một bức tường đỏ.

Quân Vũ đưa tay chỉ vào bức tường đỏ nói :

- Hàng xá ở nơi chân tường đó. Gia phụ sau khi về ẩn cư đã chọn nơi này làm
chốn an phận, gọi là Đông Mao Lãnh.

Thanh Loan mỉm cười, đáp :

- Nơi đây quang cảnh đẹp quá! Những lúc nhàn rỗi chúng ta ra bờ suối kia ngồi
câu cá thì thú vị biết bao.

Nghe Thanh Loan nhắc đến việc câu cá, Quân Vũ chợt nhớ đến thời thơ ấu, chàng
đã cùng biểu tỉ Tiểu Quyên ra ngồi nơi đó đùa nghịch và câu cá.

Tiểu Quyên với Quân Vũ là chị em cô cậu, nàng lớn hơn Quân Vũ ba tuổi, từ nhỏ
bị mồ côi cha mẹ, nên mẹ Quân Vũ đem nàng về nuôi, cho ở chung một nhà.

Hai người từ nhỏ đến lớn gần gũi nhau, cùng ăn, cùng chơi, cùng vui với tuổi
thơ đầy thương mến. Quân Vũ lúc nào cũng chiều chuộng Tiểu Quyên, và Tiểu
Quyên cũng yêu quý chàng lắm.

Lúc Tiểu Quyên lên tám, sắc đẹp tuyệt vời, mi từ mỹ lệ, chẳng khác một đóa hoa
xuất quần trong vườn xuân trước gió.

Người đã đẹp, tính nết lại nhu mì, do đó, mối tình thơ đối với Quân Vũ chẳng
lúc nào quên được.

Cặp trai gái ấy đang sống trong cuộc sống thanh bình thì năm Quân Vũ lên tám
được Huyền Thanh đạo sư đem về Tam Thanh quan để rèn luyện võ nghệ. Từ đó đến
nay đã mười hai năm.

Trong thời gian cách biệt đó, Quân Vũ có về thăm nhà hai lần. Lần trước chàng
cùng đi với sư phụ, chỉ lưu lại có hai ngày nên không có cơ hội trò chuyện
nhiều với Tiểu Quyên. Lần thứ hai cách đây ba năm, lúc chàng đã mười bảy tuổi,
mà Tiểu Quyên thì đã hai mươi tuổi.

Tiểu Quyên càng lớn càng đẹp đến nỗi Quân Vũ không thể ngờ. Chàng nhớ ngày nào
nàng còn để chỏm quả đào, mà bây giờ nàng nghiễm nhiên trở thành một vị tiểu
thư khuê các.

Hôm đó, nàng nhân lúc Quân Vũ mới về, và Huyền Thanh đạo sư mắc trò chuyện với
dượng nàng ở phòng khách, nên nàng sai tiểu tỳ đến mời Quân Vũ vào phòng nàng
gặp mặt.

Hai người lúc nhỏ chơi thân với nhau thế, mà nay lớn lên, cả hai gặp nhau đều
có vẻ thẹn thùng. Họ ngồi đối diện nhau một lúc lâu vẫn không ai mở miệng nói
câu nào.

Cuối cùng Quân Vũ đánh bạo kể lại mối tình nhớ nhung của chàng đối với Tiểu
Quyên trong lúc xa cách.

Tiểu Quyên không bạo dạn như Quân Vũ nên không dám tỏ mối tình nàng đối với
Quân Vũ, nàng chỉ khuyên :

- Huyền Thanh đạo sư là bậc thế ngoại cao nhân, được đạo sư chỉ giáo thật là
may mắn nhất đời, xin chớ vì nhớ nhung đến tôi mà xao lãng việc học hành.

Lời tâm tình mỗi lúc một đậm đà thêm, và Tiểu Quyên nói một câu cuối cùng :

- Bất luận lúc nào Quân Vũ thành tài trở về, dù một năm, hai năm hoặc hai
mươi năm nữa tôi vẫn chờ.

Câu khuyên giải của nàng chẳng khác nào một lời thề non hẹn biển, ngụ ý trao
thân gởi phận cho Quân Vũ. Mã Quân Vũ lại là kẻ thông minh lý đâu lại không
hiểu ý ấy.

Sáng hôm sau vừa thức dậy, hai thầy trò Huyền Thanh đạo sư đã vội khởi hành
trở lại Tam Thanh quan viện.

Lần này Quân Vũ về thăm nhà mang theo cả một tình nhớ nhung Tiểu Quyên.

Chàng đoán chừng Tiểu Quyên trông thấy chàng về sẽ mừng vui không sao tả nổi.

Nhưng khổ thay, lần này chàng lại về cùng với Thanh Loan, chẳng biết Tiểu
Quyên có hiểu lầm chàng chăng?

Nghĩ như vậy, Quân Vũ áy náy trong lòng, dừng chân đứng lại không đi nữa.

Thanh Loan ngạc nhiên, nhìn vào mắt Quân Vũ hỏi :

- Vũ ca! Anh nghĩ gì mà ngẩn người ra thế?

Quân Vũ thấy Thanh Loan quá lo lắng đến chàng, nên tim đập thình thịch. Chàng
gượng cười đáp :

- Tôi đương nhớ tới sư phụ...

Không đợi Quân Vũ nói dứt lời, Thanh Loan đã hỏi :

- A! Còn sư phụ của tôi! Sau này tôi nhập vào phái Côn Luân không còn được
gọi sư phụ nữa, vậy tôi phải gọi bằng gì hả anh?

Mã Quân Vũ đáp :

- Thì gọi bằng sư bá.

Thanh Loan nhoẻn miệng cười, gật đầu. Hai người lại cất bước tiến về phía bức
tường đỏ.

Họ đi qua dòng suối nhỏ, xuyên qua bãi cỏ thì tới trang viện, xung quanh có
cây cối xanh tươi, khóm trúc đứng trước cổng cúi đầu tiễn gió. Trên một khung
cửa lớn có treo tấm biển đề bốn chữ lớn :

“Thủy Nguyệt sơn trang”.

Quân Vũ dắt tay Thanh Loan rẽ vào cổng, vừa đến đại môn đã thấy một lão bộc
đang lui cui quét dọn trước sân.

Thấy Quân Vũ, lão bộc mừng quá, vứt chổi chạy đến đón, và nói :

- Ôi chao! Thiếu gia đã về. Hôm qua lão gia vừa nhắc đến thiếu gia đấy. Ngày
mai là ngày cúng tuần giáp năm cho Tiểu Quyên cô nương! Tội nghiệp Tiểu Quyên,
cô nương lúc nào cũng nhớ đến thiếu gia.

Người lão bộc đó tên A Lục, tuổi ngoài năm mươi, nhưng tính nết rất vui vẻ,
nhanh lẹ, đã chung sống trong gia đình Quân Vũ trên ba mươi năm rồi, nên tình
cảm rất thâm hậu.

Mã Quân Vũ nghe lão nói, giật mình, toàn thân run lẩy bẩy, hỏi lại :

- A Lục! Ông nói sao? Biểu tỉ của tôi chết?

A Lục lắc đầu than :

- Trời không có mắt! Một người trẻ tuổi, đẹp như ngọc, tươi như hoa lại chết
trước lão già lam lũ này!

Mã Quân Vũ chệnh choạng bước tới nắm chặt cánh tay người lão bộc hét lớn :

- Tại sao nàng lại chết?

Công lực của Quân Vũ rất mạnh, trong lúc nghe tin dữ, lòng chàng nóng như đốt,
chàng nắm cánh tay của người lão bộc kia, thì người lão bộc còn chịu sao nổi!
Lão “Á” lên một tiếng, toàn thân run lập cập, nước mắt, nước mũi chảy ra một
lúc.

Thanh Loan đứng một bên, thấy vậy cũng không hiểu được nguyên do làm sao, nàng
cũng không biết phải dùng lời nào để khuyên can được.

Chợt bên trong, một ông lão râu tóc bạc phơ, dáng mạo có vẻ tiên phong đạo
cốt, bước ra hét lớn :

- Vũ nhi! Làm sao thế? Hãy bỏ tay A Lục ra! Con điên rồi sao?

Tiếng hét đó làm cho Quân Vũ tỉnh lại, chàng quay đầu chắp tay, hướng về phía
đại môn, quỳ gối thưa :

- Vũ nhi xin vấn an thân phụ.

ông lão trố mắt nhìn người lão bộc hỏi :

- Có bị thương tích gì không?

Người lão bộc đưa tay áo lau nước mắt, và thưa :

- Không sao! Tôi bị đau một chút nhưng còn chịu được.

ông lão nói :

- Thôi hãy vào nhà trong nghỉ một chút đã.

Người lão bộc “dạ” một tiếng rồi lủi thủi đi vào trong.

Thấy Mã Quân Vũ còn quỳ dưới đất, ông lão cất lời khiển trách :

- Con đã hai mươi tuổi đầu rồi, sao còn dại dột thế. Nếu cha ra trễ thì cánh
tay của A Lục còn gì?

Quân Vũ cúi đầu nói :

- Con vừa nghe tin biểu tỷ chết nên tâm trí rối loạn, xin phụ thân dung thứ.

Ông lão thở dài, than :

- Quyên nhi đang tuổi xuân thì chết đi thật là đáng tiếc, ta và mẹ con đã tận
tâm cứu chữa, nhưng số trời đã định, sức người không chống nổi mệnh trời. Thôi
con hãy đứng lên, vào nhà an nghỉ.

Dứt lời, ông lão bước đến bên Thanh Loan, hỏi :

- Cô nương này là ai?

Quân Vũ đứng dậy thưa :

- Nàng là Lý Thanh Loan, sư muội của con. Con phụng mệnh sư phụ đưa nàng đến
núi Côn Luân yết kiến sư thúc.

Đoạn chàng nói nhỏ vào tai Thanh Loan :

- Đây là thân phụ của tôi.

Thanh Loan liền đặt gối quỳ xuống, gọi lớn :

- Thưa bá phụ.

Ông lão mỉm cười gật đầu nói :

- Ly cô nương mau đứng dậy! Sao cô nương lại dùng trọng lễ với tôi như vậy.

Thanh Loan nhoẻn miệng cười, đứng ra sau lưng Quân Vũ, không biết lời nào để
nói nữa.

Thân phụ của Mã Quân Vũ tên Mã Long, giữ chức Ngự sử tại triều đình năm Minh
Tống. Sau này vì Lưu Cẩn lạm quyền, nên ông ta bất mãn từ chức quy điền, ẩn
tại Đông Mao Lãnh đóng cửa đọc sách trồng hoa uống rượu.

Khi Mã Quân Vũ lên bốn tuổi, thường cùng với Tiểu Quyên ra suối câu cá chơi.
Hôm ấy, Huyền Thanh đạo sư đi ngang qua thấy Quân Vũ khôi ngô tuấn tú, tánh
nết ôn hòa, đem lòng mến, lấy cớ là đi quyên tiền chữa viện, lần vào Thủy
Nguyệt sơn trang để chuyện trò với Mã Long.

Mã Long thấy Huyền Thanh đạo sư có vẻ tiên phong đạo cốt, biết không phải
người tầm thường, liền mời vào phòng khách uống trà.

Hai người càng nói chuyện càng hợp ý nhau, nên kết nghĩ tâm giao.

Tiếp đó, năm nào Huyền Thanh đạo sư cũng đến thăm chơi một lần. Qua nhiều lần
gặp gỡ, Mã Long biết được Huyền Thanh đạo sư là người bát thông lục nghệ, văn
võ tinh thông nên càng đem lòng cảm phục.

Lúc Quân Vũ lên tám tuổi, Huyền Thanh đạo sư tỏ lời nói với Mã Long :

- Quân Vũ có cốt kỳ thanh tú, khí khái hơn người, chẳng phải kẻ bôn ba trong
bể loạn, chiếm lấy địa vị quan chức đâu.

Mã Long cũng cười, nói :

- Tôi đã chán cuộc đời quan chức, mới về ẩn cư nơi đây, đâu còn mong con cái
lập thân trên đường thành danh ấy. Nếu đạo trưởng không chê bai nó là đứa ngu
muội, tôi sẽ cho nó bái đạo trưởng làm thầy, và nhờ đạo trưởng đem về chỉ dạy
giúp.

Câu nói ấy hợp ý muốn của Huyền Thanh đạo sư, nên ông ta không hề từ chối.

Cách hai ngày sau, Huyền Thanh đạo sư dắt Mã Quân Vũ về Tam Thanh quan. Bao
nhiêu võ công đặc dị của phái Côn Luân, Huyền Thanh đạo sư trong mười hai năm
trời đã dốc túi truyền cho Mã Quân Vũ.

Hôm nay Mã Quân Vũ rời khỏi sư môn, tuy với lớp tuổi còn non nớt nhưng bản
lãnh đã có hạng trong giới võ lâm rồi.

Bây giờ Mã Long dắt Quân Vũ và Thanh Loan vào đại sảnh, rồi ân cần hỏi :

- Lần này sư phụ con không đến chơi sao? Con định ngày nào trở lại Tam Thanh
quan?

Mã Quân Vũ thưa :

- Sư phụ con dạy con về đây hầu hạ cha mẹ! Qua một tháng sẽ đưa sư muội con
đến núi Côn Luân bái sư, không trở về Tam Thanh quan nữa.

Mã Long đôi mắt đăm chiêu, nhìn con, vuốt râu, nói :

- “Con là đệ tử của phái Côn Luân, phải nghe theo lời đạo trưởng chỉ dạy, lo
làm tròn bổn phận một người trai. Còn cha mẹ con đã già rồi, qua những chuỗi
ngày thừa đâu còn thiết gì nữa mà hầu hạ. Từ ngày Tiểu Quyên chết đi, mẹ con
luôn luôn ở trong “Dưỡng Tâm đường” sớm tối đọc kinh nhiệm Phật, không muốn
gặp mặt ai. Đến như cha đây mà mẹ con cũng chẳng cho vào đó, sợ làm bận lòng.

Mẹ con đã thế, thì cha đây cũng tìm đường tu niệm cho xong, để tâm hồn được an
ổn trong lúc tuổi già.

Mẹ con tuy là xuất thân nơi đại gia thế phiệt, song người rất thông minh và
hiền đức. Chính mẹ con đã khuyên cha bỏ con đường bể loạn, về ẩn thân nơi này,
nên mới được chút an nhàn hôm nay. Trước đây, mẹ con thường nói với cha rằng :

“Tiểu Quyên dung nhan mỹ lệ, nhưng mệnh bạc, ắt không thể sống quá hai mươi
lăm tuổi”.

Quả nhiên, Tiểu Quyên chết không quá hai mươi hai tuổi, nàng chết vì nàng lá
một đóa thiên hoa, tạo hóa ghen hờn. Vả lại, thân phụ của nàng trước kia làm
tri huyện Nhiệm Châu có nhiều hành vi thiếu đức, có lẽ vì thế mà lưu lại quả
báo cho Tiểu Quyên chăng? Thôi con hãy vào “Dưỡng Tâm đường” bái yết mẹ con
đã, rồi ngày mai sẽ đem chút lễ vật đi điệu bái linh mộ của biểu tỷ con. Còn
về tương lai của con, cha cũng không muốn bận tâm đến. Huyền Thanh đạo sư là
người thế ngoại huyền cơ, con cứ nghe theo lời đạo trưởng mà minh định bước
đường tương lai của con”.

Dứt lời, Mã lão gục đầu chào Lý Thanh Loan, rồi từ từ bước ra khỏi phòng.

Quân Vũ đứng ngơ ngác, đôi mắt trao tráo như một con gà gỗ, chẳng hiểu vì đâu
cha chàng lại lạnh nhạt với cuộc sống như thế? Chàng có hiểu đâu rằng qua một
thời gian trầm luân trong bể loạn, cha mẹ chàng đều đã chán ngán sự đời, xem
cuộc sống như giấc mộng phù du.

Thấy bóng thân phụ đã khuất ngoài phòng, Quân Vũ từ từ rơi hai giọt lệ, Lý
Thanh Loan rút chiếc khăn tay trao cho Quân Vũ chẳng nói lời nào.

Quân Vũ lấy khăn lau nước mắt, và gượng gạo nói :

- Chúng ta đến bái yết mẫu nghi.

Thủy Nguyệt sơn trang chỉ là một trang viện cũ kỹ, không có gì đẹp đẽ. Sở dĩ
Mã lão chọn nơi đây, và đặt tên ấy là vì ông cảm thán nhân tình, lấy cảnh
thanh nhàn phôi phai cuộc đời quan chức, coi công danh phú quý như đám mây
trôi.

“Dưỡng Tâm đường” được kiến trúc trong đám thùy dương, bên trong vọng ra từng
hồi chuông u tịch. Mã Quân Vũ dắt Thanh Loan đi vòng quanh một lúc thì đến ba
căn nhà lá sơ sài, nhưng quét dọn rất sạch sẽ. Bên trong có đặt chiếc bàn
trúc, trước bàn có bày một tượng Phật, khói hương nghi ngút. Một thiếu phụ
tuổi trung niên, đôi mắt lim dim, đang chấp tay tụng niệm.

Mã Quân Vũ bước nhanh tới, quỳ gối nói lớn :

- Mẹ! Vũ nhi đã về đến!

Mã phu nhân từ từ mở mắt ra, trên nét mặt trang nghiêm lộ một nụ cười phúc
hậu.

Bà bước đến vò đầu Quân Vũ, nói :

- Con về rất đúng lúc! Quyên biểu tỷ của con đã chết rồi! Mai là ngày cúng
tuần chu niên của nó! Tội nghiệp, trước giờ chết nó vẫn nhớ đến con. Mai con
bảo lão A Lục dắt con đến mộ nó cúng tế để cho linh hồn nó dưới suối vàng được
an tâm. Mồ nó mẹ chôn nơi chân núi tây, chỗ mà con và nó thường vui đùa chơi
với nhau thưở nhỏ.

Mã Quân Vũ rơi lệ, nói :

- Tội nghiệp! Lúc biểu tỷ chết con không được thấy mặt nhau lần cuối cùng.

Mã phu nhân đỡ Quân Vũ dậy, trong khuôn mặt trang nghiêm của bà chứa đầy bi
thương, nói :

- Tiểu Quyên sắc nước hương trời, thông minh có một. Tạo hóa cướp mất mạng nó
tức là không muốn để nó phải chịu cảnh quả báo sau này! Con cũng đừng thấy thế
mà đau lòng. Còn cô nương đây là ai vậy?

Mã Quân Vũ chưa kịp đáp lời thì Thanh Loan đã quỳ gối xuống đất, nói :

- Thưa bá mẫu, cháu tên Lý Thanh Loan, cùng Mã sư huynh đều là môn hạ của
phái Côn Luân.

Mã phu nhân bước tới đỡ nàng dậy, kéo nàng đến bên mình, hỏi :

- Cháu là sư muội của Quân Vũ hả! Năm nay cháu được bao nhiêu tuổi?

Lý Thanh Loan gục đầu thưa :

- Cháu mười bảy tuổi.

Mã phu nhân thấy nàng dễ thương, ôm nhẹ vào lòng, hỏi tiếp :

- Nhà cháu ở đâu? Mẹ cháu có mạnh giỏi không?

Câu hỏi ấy làm cho lòng Thanh Loan đau nhói lên. Nàng dựa vào lòng Mã phu nhân
khóc sướt mướt.

Từ nhỏ, nàng đã mồ côi cha mẹ, chỉ nhờ Ngô Không đại sư nuôi dưỡng cho đến
tuổi trưởng thành. Tuy Ngô Không đại sư rất nuông chiều nàng nhưng cũng không
sao đầm ấm như tình mẹ con được.

Nay trước cảnh gia đình đầm ấm của Quân Vũ, mà Mã phu nhân lại hỏi đến thân
thế của nàng, bảo sao nàng không đau lòng được.

Nàng sụt sùi đáp :

- Cháu gặp phải số kiếp đau thương. Từ nhỏ đến lớn không biết mặt mẹ cha, chỉ
được sư phụ đem về nuôi dạy, và cho biết tên cháu là Lý Thanh Loan.

Mã phu nhân nghe nói rất thương tình, đưa tay vuốt tóc nàng an ủi :

- Cháu ạ! Đừng khóc nữa! Trong đời có ai khỏi chết? Có bà mẹ nào sống mãi với
con được đâu?

Thanh Loan nhìn vào vẻ mặt hiền từ của Mã phu nhân, đột nhiên hỏi :

- Bá mẫu! Bá mẫu xem cháu có số bạc mệnh chăng? Cháu có giống như Quyên biểu
tỷ của Mã sư huynh mà chết sớm chăng?

Thanh Loan vốn tính trẻ con, nghĩ sao nói vậy. Nhưng Mã Quân Vũ nghe nàng hỏi
như thế toàn thân lạnh toát


Tiên Hạc Thần Kim - Chương #2