Hồi Tám (2)


Người đăng: Kms4money

Hồ Xạ nghe thấy Tông Đỗ Công Khôi tự mình dẫn quân đột kích doanh trại, biết
ngay hai tên này hẳn là hấp tấp cướp công. Y nhìn về đường sông lớn, sau đó
cắn răng hạ lệnh:

“ Còn chờ gì nữa? Toàn quân thẳng tiến nhắm thẳng địch doanh! ”

Vừa quét tan được thuyền giặc, Nguyễn Tông Đỗ và Nguyễn Công Khôi đã tập hợp
hết thuyền Cổ Lâu, dẫn quân vòng lên phía tây, theo các kênh lạch nhỏ tập kích
doanh trại quân Minh.

Thuyền Cổ Lâu là một loại thuyền chiến lớn đóng đinh sắt, có hai tầng boong
với hàng chục tay chéo và hai người điều khiển một mái chèo. Đáy thuyền được
làm thêm một “đáy” nữa, chia bụng thuyền làm hai phần: phần dưới để lính chèo
thuyền, phần trên giấu lính chiến đấu. Cổ lâu thuyền vừa được dùng để tải
lương, vừa sẵn sàng chiến đấu khi được trang bị Thần Cơ sang pháo.

Cứ như những gì Hồ Xạ, Hồ Đỗ bàn với Khai Đại đế thì đáng lẽ người dẫn quân
tây tiến là hai người Đỗ Xạ. Còn kẻ cầm binh đánh vỗ mặt với Trương – Mộc phải
là Tông Đỗ Công Khôi. Hồ Xạ không cho rằng hành động của hai tướng chỉ là một
sự trùng hợp. Cho dù lá gan của Nguyễn Tông Đỗ, Nguyễn Công Khôi có lớn gấp
đôi thì cũng không dám đặt tai mắt bên người Hồ Hán Thương.

Rất rõ ràng, con cờ mà Khai Đại đế muốn thí là hai người bọn hắn. Song biết
thì cũng biết vậy, Hồ Xạ hắn lại sợ gì mà không xua quân tiến đánh?

[ Tướng quốc đã đoán trước được chăng? Không! Không lí nào người lại lên kế
hoạch tự chia rẽ nội bộ như vậy. Thôi! Ta vẫn cứ y theo lời người mà làm là
được. ]

Hồ Xạ nghĩ thông suốt, thì hướng xa soái kì của Hồ Đỗ cũng đã giương cao đón
nắng. Y đoán rằng tên Hồ Đồ này hẳn cũng y theo căn dặn của tả tướng quốc mà
xuất binh.

Thuyền nhỏ nhà Hồ hợp hai đội làm một, số lượng ước chừng mấy trăm chiếc, kéo
nhau trực chỉ quân doanh của quân Minh. Sóng nước khẽ dập dềnh theo nhịp tay
người, gió nhảy múa theo tấm chiến bào.

Binh sĩ đến bên mạn thuyền, dõi mắt ngóng nương dâu ruộng lúa đằng xa. Trông
mảnh đất màu mỡ ngày nào nay khô cằn vì thiếu vắng bàn tay săn sóc của người
nông phu, mà các binh sĩ thoáng chạnh lòng. Kì thực, họ cũng từ tầng lớp bán
mặt cho đất bán lưng cho trời mà ra chứ đâu? Chưa lúc nào, các binh sĩ nhà Hồ
muốn chấm dứt cuộc chiến hơn hiện giờ.

Trống trận nổi đùng đùng, binh lính vỗ tay gõ mạn thuyền đánh nhịp cho ì oạp
tiếng sóng. Đoàn thuyền chiến theo dòng chảy lớn nhất mà tiến về phía quân
doanh nhà Minh.

Cách đó không xa…

Nguyễn Tông Đỗ chia nhỏ một vạn binh mã của mình làm năm cánh, mỗi cánh mười
chiếc thuyền lớn khua chèo ngược sông vòng lên phía tây. Sau đó mượn lạch nhỏ
kênh hẹp đông tiến, nhắm thẳng vào đại bản doanh nhà Minh.

Bóng cây hai bên bờ toả ra, trơ trọi chẳng mấy màu xanh. Trên bầu không, vài
ba tiếng chim gọi bầy tê tái thê lương.

“ Bẩm, phó… ”

“ Phó cái gì mà phó! Ta đã bảo bao nhiêu lần rồi, phải gọi là ông lớn. ”

Nguyễn Tông Đỗ cầm bao kiếm gõ đánh bốp một cái xuống đầu người lính, vỏ kiếm
bằng gỗ đụng vào mũ sắt đánh bốp một cái, tiếng vang không trong thanh mà hơi
trầm đục.

“ Dạ, ông lớn. Doanh trại quân Minh chỉ còn cách chúng ta chừng một hai dặm
đường thuỷ. Có cần tăng tốc không? ”

Nguyễn Tông Đỗ đưa tay vuốt râu, tỏ vẻ hài lòng. Đôi mắt y híp lại thành một
đường kẻ hẹp, nếp nhăn trên trán sô vào nhau như sóng dưới sông. Khói cơm
chiều bốc lên ở đằng xa, khiến y càng thêm yên tâm.

“ Vậy hả? Tốt lắm, cứ cho quân chạy chậm lại, thám thính cẩn thận. Chú ý trọng
điểm phía Hồ Xạ tướng quân. ”

“ Rõ! ”

Người nọ chắp tay, hai hàm răng khẽ nghiến lại tức giận. Y vốn là bộ hạ của Hồ
Đỗ, nhưng nay lại bất đắc dĩ bị phân vào dưới trướng Nguyễn Tông Đỗ. Y từng
cùng Hồ Đỗ đánh mấy chục trận với quân Minh, trước đó lại từng xuất chinh tiến
đánh Chiêm Thành nên không phải kẻ đần. Chỉ nghe thoáng qua là biết, Nguyễn
Tông Đỗ đang muốn chờ, song không phải đợi cho quân Minh lơ lỏng canh phòng. Y
đợi là đợi lúc Hồ Xạ, Hồ Đỗ đánh vỗ mặt vào doanh trại quân Minh.

Chỉ cần thế công đủ dữ dội,Trương Phụ - Mộc Thạnh ắt phải phân bớt lực lượng ở
hai cánh ra phòng thủ.

Khi đó, Tông Đỗ và Công Khôi với hai vạn đại binh sẽ đánh úp ngay.

Doanh trại quân Minh cách đoạn sông Hàm Tử không quá xa, nên thám báo quân
địch hẳn đã nắm được hướng khai triển quân của quân Hồ.

Song, Tông Đỗ không hề ngại. Năm vạn đại quân đang tiến thẳng về doanh trại,
ngay cả khi chỉ chèo thuyền nhỏ cũng là một áp lực cực lớn. Nếu phân tán quân
lực ra chặn cánh quân của hắn và Nguyễn Công Khôi thì có khác gì dâng đại bản
doanh cho quân Hồ?

Người có cùng ý nghĩ ấy là Nguyễn Công Khôi. Sau khi nghe thám báo cáo tri
hướng tiến công của hai người Đỗ, Xạ, y mới trộm thở phào. Không chỉ ham mê
tửu sắc, so với Tông Đỗ y còn thiếu một chút quyết đoán.

[ Thánh thượng đúng là đoán việc như thần. Hồ Xạ Hồ Đỗ chỉ có thuyền nhỏ. Nếu
một bên tử thủ đến cùng, bên kia liều mạng tấn công thì ắt tạo thành thế lưỡng
bại câu thương. Khi đó ta chỉ cần ngư ông đắc lợi. Mượn tay quân Minh để nhổ
đi gần hết phe phái ủng hộ tả tướng quốc trong quân ngũ, chiêu này của thánh
thượng quả thực rất cao. ]

Y càng nghĩ càng thấy nể sợ Hồ Hán Thương. Chẳng những biết nếm mật nằm gai
chịu làm con bù nhìn, còn có tầm nhìn xa trông rộng. Trên hết là lòng dạ đủ
độc, thủ đoạn đủ tàn nhẫn. Nguyễn Công Khôi thầm nhắc nhở bản thân phải hết
lòng hết dạ đi theo ủng hộ vị tân hoàng này mới được.

Cứ theo lẽ thường mà nói, Trương Phụ sẽ cố thủ tử chiến. Thế thì mũi nhọn
chiến tranh sẽ bị đẩy về phía Đỗ, Xạ.

Thế nhưng…

Sau trận thua ê chề ở Muộn Hải, lần này Trương Phụ nhất quyết không hành quân
đánh trận theo lẽ thường nữa.

Cánh quân do Nguyễn Công Khôi cầm đầu chèo ra giữa dòng sông.

“ Thưa tướng quân, phía trước có dòng nước ngược. Có lẽ thuyền đi sẽ hơi xóc.
Mong tướng quân đứng vững. ”

“ Không sao! Cứ nhắc anh em vững tay chèo lên. Qua con nước này, doanh trại
quân Minh sẽ ở trước mặt. ”

Chừng mười chiếc thuyền tiến vào đoạn sông khó vượt, dòng nước xiết khiến
chúng thoáng rẽ ngang sang bãi bồi bên cạnh.

Rầm!! Rầm! Uỳnh!

Đáy thuyền chấn động mạnh, mọi vật trên khoang bao gồm cả con người bổ nhào về
phía trước. Giống như có chớp nổ dưới lòng sông, pháo nổ ngang đáy thuyền vậy.
Nguyễn Công Khôi choáng váng, loạng choạng cố để giữ vững thân mình. Y thoáng
thấy đáy thuyền trầm xuống một chút.

“ Trời ạ, cái dòng nước này mạnh quá đi mất. ”

Nguyễn Công Khôi lau mồ hôi trán, cảm khái.

“ Đó không phải dòng nước đâu, chúng ta đâm vào bãi chông rồi. ”

Có bốn thuyền trên mười chiếc bị chông cố định, nước bắt đầu chảy vào đáy
thuyền. Ở cái lạch nhỏ này, chiến thuyền mắc cạn chẳng khác nào cá nằm trên
thớt.

Nguyễn Công Khôi lập tức giật mình, hai từ “ địch tập ” bật lên trong óc hắn
theo bản năng. Y xiết tay quanh mũi kiếm, ra lệnh:

“ Ngừng chèo, mau ngừng chèo! Vây quanh soái thuyền… ”

Sáu thuyền còn lại đi lướt qua bốn chiếc mắc cạn. Mỗi chiếc chiến thuyền được
lãnh đạo bởi một vị bách hộ. Trong một thoáng, sáu người vội vã lệnh cho tam
quân ngừng chèo, tĩnh quan kì biến.

Song, thể hình to lớn khiến Cổ Lâu thuyền khó mà quay đầu nổi giữa đoạn sông
chật hẹp thế này. Nay bốn chiếc đã bị vướng vào bãi cọc mắc cạn không tiến
không lui được, ngoại trừ bỏ thuyền ra chẳng còn lựa chọn nào khác.

Nguyễn Công Khôi hốt hoảng ra lệnh dùng ván gỗ bắc cầu, để mình và quân lính
trèo lên sáu chiếc còn lại. Mặc dù biết làm vậy là khiến toàn quân phải lâm
vào hiểm cảnh, nhưng quân lệnh nặng như núi, các bách hộ còn lại dù không muốn
nhưng cũng đành phải làm theo lệnh.

Cả mười chiếc Cổ Lâu thuyền dừng lại nơi lạch nhỏ, từng tấm ván gỗ thò ra qua
mạn thuyền. Nguyễn Công Khôi dẫn đầu bò qua thuyền khác, tứ chi quặp chặt lấy
những tấm ván chẳng khác nào con lười bám cành cây.

Các cụ lại có câu : “ ghét của nào trời cho của đó ”. Ngay cái thời điểm nhạy
cảm này, lúc mà không ai trong quân Công Khôi muốn gặp phải mai phục, thì hai
bên sông chợt dương lên những ngọn cờ của quân Minh. Liền đó, tiếng tù và giục
ra quân nối đuôi nhau nổi lên khắp cả một vùng sông nước.

Nguyễn Công Khôi đang lôm côm bò qua thuyền khác, nghe tiếng hét đồng thanh
vang trời dậy đất thì giật nảy mình. Hai tay đang tóm chặt tấm ván thoáng
buông ra, người run bắn như cầy sấy. Thành thử, y trượt một cái, rơi đánh tòm
xuống sông.

Hai bên sông túa ra cơ man nào là lính Minh, trong rừng cây còn thấp thoáng vô
số bóng mũ, hình người. Hoả mai bắt đầu bắn, tên cháy lao vun vút về phía quân
Hồ. Giống như một con chuột bị sa bẫy, đoàn thuyền Cổ Lâu chơ vơ giữa dòng
nước dữ, mặc sức cho quân Minh đánh đánh giết giết.

Quân Hồ biết khó mà thoát thân, bèn cắn răng nổ pháo. đánh trả. Thần Cơ sang
pháo đặt trên Cổ Lâu thuyền sống dậy, gầm vang một tràng khác nào sấm nổ trên
không, núi non sạt lở.

Đùng đoàng tiếng pháo, thê lương giọng người cứ vang mãi trên sông như một
vòng lặp vô tận. Có cảm giác những âm thanh ấy đã hoá thành bóng ma để ám lên
khúc sông đầy thi thể nơi đây. Người này ngã xuống nối tiếp người kia, thây
chất lên xác, súng ngả lên những mũi tên đứt đoạn, thương gãy vùi cùng kiếm mẻ
xuống tận đáy sông. Mỗi lần tiếng thét vang lên, không phải người bắc chết thì
dân nam về với đất. m thanh hoả pháo gầm vang như tiễn đưa các vong hồn về
chốn cửu tuyền, xa lìa dương thế, bái biệt những nắng ấm sương mai.

Lần lượt, các bách hộ ngã xuống. Quân Minh đánh ập từ hai phía đã khó mà chống
đỡ, họ lại cố tình đặt sẵn hoả pháo ở hai bên bờ sông. Cổ Lâu thuyền mắc cạn,
là tấm bia ngắm bất động. Thật dễ làm sao.

Chiến thuyền bứt phá băng về phía trước, liều mạng mở con đường máu rút về
phía quân doanh nhàMinh. Thương vong thật là thê thảm. Tổng cộng có bảy chiếc
Cổ Lâu thuyền bị pháo oanh tạc thành một đống mảnh vụn, theo dòng nước trôi về
biển đông.

Nguyễn Công Khôi toàn thân ướt sũng như chuột lột, lum cum bò lên bờ. Trông y
nay còn thảm hơn cả con chó hoang mắc mưa, con mèo gần chết đuối. Chưa kịp thở
hơi thứ hai, những ngọn thương tua tủa của quân Minh đã chĩa về phía y, không
có đến một kẽ hở nhỏ. Cái sắc bén truyền tới từ mũi lao khiến lông tơ y dựng
đứng. Biết là không còn cơ hội, Nguyễn Công Khôi lắc đầu, hai tay giơ lên xin
hàng.

Các lộ binh mã tập kích của nhà Hồ liên tiếp trúng mai phục. Cánh của Tông Đỗ
cũng chẳng phải là ngoại lệ. Quân Minh chọn đúng nơi nước lặng chảy chậm, tốc
độ thuyền chiến không còn quá nhanh bèn ập ra từ hai bên sông, liên tiếp quăng
những chum đất lên thuyền. Chum vỡ, ứa ra ngập ngụa sàn tàu không gì khác
ngoài dầu và rượu.

Hoả công!

Trương Phụ cho quân xả tên cháy thẳng vào đoàn thuyền, đốt trụi sáu trên mười
thuyền Cổ Lâu. Y trả mối thù đốt doanh lần trước bằng một trận mưa lửa, bằng
một trận hoả hoạn trên sông.

Nguyễn Tông Đỗ cắn răng cho quân ngược sông tiến công, muốn mở đường máu như
các nhánh quân khác. Nhưng than ôi, xui cho y là đụng ngay vào bãi cọc ngầm
dựng giữa sông. Hai Cổ Lâu thuyền dẫn đầu va vào bãi cọc, hai chiếc còn đụng
vào chiếc trước đánh ầm một cái. Mảnh gỗ vụn vương đầy trên sông.

Cổ Lâu thuyền hư hại nặng. Nguyễn Tông Đỗ vội vàng bỏ thuyền lên bộ. Y tuốt
kiếm cắt tóc cạo râu cho mặt khác đi, đang muốn trốn, nào ngờ đón sẵn y lại là
Mộc Thạnh.

Thạnh ngồi trên yên ngựa cao cao, siêu chỏ vào Tông Đỗ mà cười:

“ Ồ, chẳng phải tướng giữ thành Đa Bang đây sao? Hôm nay sao lại luân lạc tới
mức này? ”

Nguyễn Tông Đỗ biết có trốn cũng chẳng thoát, bèn dập đầu như hái sao:

“ Con lạy ông, con lạy ông ạ… đều là mấy tên họ Hồ muốn kháng lại thiên triều,
chứ con thấp cổ bé họng, gan chì bằng ngón chân cái thì làm gì dám chống lại
thiên uy. Xin ông tha cho, con làm trâu làm ngựa gì cũng chịu. ”

Mộc Thạnh cười khẩy khinh thường, siêu vung cao muốn chém, nhưng lúc này lại
có tiếng ai gọi với qua:

“ Mạng chó tên này hãy còn hữu dụng, mong hầu gia siêu hạ lưu nhân. ”

“ Hừ, tha nhà ngươi một mạng. Bay đâu, bắt! ”

Mộc Thạnh hừ lạnh, giục ngựa cho quân lui vào cánh rừng. Tông Đỗ bị trói
nghiến hai tay, cổ thòng một sợi dây buộc vào yên ngựa. Y bị dắt đi như người
ta dắt chó, song cũng đành cắn răng mà nhịn.


Thuận Thiên Kiếm - Rồng Không Đuôi - Chương #29