Người đăng: KennyNguyen
Khi Nguyên Quốc tại Bắc Đái nhận được tin báo của lính liên lạc từ Luy Lâu thì
ngay lập tức hắn bỏ hết mọi công việc mà di chuyển về nơi này. Vừa di chuyển
thì Nguyên Quốc vừa thầm than trong lòng ông trời quả là công bình, sau rất
nhiều lần true đùa Nguyên Quốc thì cuối cùng cũng có một lần vận may mỉm cười
với hắn. Nên nhớ rằng trong lịch sử sở dĩ Luy Lâu trở thành một trung tâm
thương mại mà các thuyền buôn Ấn Độ ghé qua là sau cuộc đàn áp trắng trợn của
Lã Đại và áp người Việt tại Giao Châu. Sau đó dưới chế độ cai trị của Đông Ngô
thì Luy Lâu mới trở thành nơi giao thương chính thức, còn lúc này đây các
thuyền buôn Trung Á vẫn ưa thích tiếp tế lương thực và nước ngọt cùng nghỉ
ngơi sửa chữa thuyền tại Lâm Ấp. Lý do quá đơn giản vì Lâm Ấp là một quốc gia
bị ảnh hưởng sâu sắc bởi nền văn hóa Ấn Độ, vậy nên nghỉ ngơi tại đây họ cảm
thấy thởi mái hơn nhiều. Còn nếu cập bến Luy Lâu họ cũng không buôn bán gì
được nhiều, tuy rằng Việt tộc bị bóc lột mà sản xuất khá nhiều lụa nhưng kĩ
thuật không được tốt như lụa và gấm vóc của người Hán làm ra. Lúc này kĩ thuật
của người Việt về tơ lụa và gấm vóc không quá cường đại như sau này nên không
hề có tính cạnh tranh cao cùng tơ lụa người Hán. Đội thuyền buôn gồm cả người
Ấn và người Ba Tư kết hợp có tới hơn chục thuyền buôn. Trong quá trình di
chuyển thì họ dự định sẽ ghé qua mảnh đất Lâm Ấp để tiến hành bổ xung tiếp tế.
Nhưng khốn nỗi nơi đây đang chiến hỏa tưng bừng không chịu nổi nên họ đành cắn
răng mà đi về phía Giao Châu. Và đội thuyền buôn này đã được "vinh dự"chạm
chán thủy quân Đại Việt đang thực hiện nhiệm vụ tuần dương trên vùng biển
cửa Sông Hồng. Tất nhiên không lôi thôi gì cả họ bị áp giải về Luy Lâu với
những cầu cảng đủ lớn để chứa các thuyền buôn này. Tuy nói Bắc đái là thủ đô
của Đại Việt với con song Đuống rộng lớn chảy qua thế nhưng cầu cảng nơi này
vẫn đang trong quá trình mở rộng nên không thích hợp để neo đậu quá nhiều
thuyền lớn.
Lại nói qua Lâm Ấp và tình hình của nó… Từ nửa cuối thế kỷ thứ 2, phần lãnh
thổ cực nam quận Nhật Nam ( phía nam quận Cửu Chân) trở nên phức tạp, cư dân
bản địa liên tục nổi lên chống lại nhà Hán. Huyện Tượng Lâm trở thành nơi
tranh chấp thường xuyên giữa nhà Hán và dân địa phương . Năm 190, con của quan
Công Tào, tên Khu Liên nổi lên giết thứ sử Chu Phù và chiếm huyện thành. Năm
192, Khu Liên giết huyện lệnh (huyện trưởng) nắm quyền cai trị. Khu Liên cắt
một phần lãnh thổ cực nam của quận Nhật Nam - huyện Tượng Lâm để thành lập
vương quốc riêng gọi là Lâm Ấp quốc . Nhà Hán gọi các dân tộc bản địa ở Giao
Châu (Lưỡng Quảng và miền Bắc Việt Nam) là dân Bách Việt. Người Lâm Ấp cũng là
của dân Bách Việt (người Việt cổ), là một trong những tổ tiên của các dân tộc
Việt Nam ngày nay. Nhưng Lâm Ấp độc lập lại mở đầu gặp gỡ giữa hai nền văn
minh Trung Quốc và Ấn Độ tại bán đảo Đông Dương. Nhưng vì sao ngày nay những
người Việt cổ tổ tiên dan tộc Chăm Pa này lại có sự khác biệt quá lớn với
người Kinh như vậy thì phải nói đến một câu chuyện Ấn hóa của dải đất phía Nam
này.
Thời kỳ đầu, hệ thống kỹ thuật kiến trúc Lâm Ấp qua di tích và hiện vật khảo
cổ cho thấy ảnh hưởng Trung Quốc nhiều hơn ảnh hưởng Ấn Độ. Sau đó, thương
nhân và tu sĩ Ấn Độ bắt đầu giao tiếp dần với người Lâm Ấp. Những người Ấn này
đã truyền cho giới quý tộc địa phương văn minh và văn hóa của họ, và luôn cả
cách thức tổ chức xã hội. Khác với người Hoa, tổ chức xã hội của người Ấn mang
tính phân quyền cao hơn, phù hợp với nếp sống của người địa phương nên được
tầng lớp thượng lưu địa phương ưa chuộng. Đặc điểm của người Ấn là ít dùng bạo
lực để áp đặt văn hóa hay uy quyền chính trị của mình trên những xã hội khác,
kém hơn, mà để các thân hào địa phương tự nguyện làm thay, sau khi hấp thụ văn
minh và văn hóa của họ.
Sau khi Khu Liên qua đời, chữ Phạn trở thành chữ viết chính thức của các triều
vương. Các bi ký tìm được trong giai đoạn này đều khắc bằng chữ Phạn. Quốc thư
trao đổi của Lâm Ấp với Trung Quốc thời đó được viết bằng "Hồ tự" (tức chữ
Phạn) thay vì chữ Hán. Thời cuối Lâm Ấp (thời đầu Chăm Pa), văn hóa Ấn Độ trở
thành văn hóa chính của vương quốc. Ấn Độ giáo và Phật giáo bắt đầu được
truyền bá.
Nói một cách nào đó sự xâm thực văn hóa một cách khá hòa bình của người Ấn về
phía những bộ lạc Bách Việt tạo nen Lâm Ấp đã khá thành công trong lịch sửa.
Họ đã tạo ra sự phân hóa rõ rang cho các tộc Bách Việt ở vùng cực Nam Giao
Châu này với những tộc Bách Việt gốc tại miền Bắc Giao Châu. Mà cho đến hiện
đại thì kể cả văn hóa, ngôn ngữ lẫn chữ viết thì nhóm người bị Ấn hóa tại Lâm
Ấp đã không mấy còn giữ lị bản sắc Bách Việt của mình. Điều này chứng minh khá
rõ trình độ văn hóa của người Ấn vào thời điểm này là một trong những nền văn
minh bá đạo nhất của nhân loại. Chỉ dựa vào truyền bá một cách ôn hòa mà một
phần lớn bán đảo Đông Dương bị Ấn hóa khá triệt để ( nhìn vào sự ảnh hưởng về
mặt văn hóa của các quốc gia trong khu vực Đông Nam Á hiện nay chúng ta có thể
thấy rõ sức ảnh hưởng của văn hóa Ấn Độ lên vùng đất này).
Trong lịch sử thì vào những năm 220-230 con cháu Khu Liên có gửi phái bộ đến
thống đốc Quảng Đông và các thái thú Giao Châu (Lã Đại và Lục Dận) triều cống
Đông Ngô và duy trì quan hệ ngoại giao. Mãi đến năm 248 diễn ra cuộc khởi
nghĩa của Bà Triệu. Nhà Đông Ngô cho Lục Dận làm An Nam hiệu úy, tức thứ sử,
sang Giao Châu dẹp loạn. Sau khi dẹp xong cuộc khởi nghĩa này, Lục Dận đem
quân xuống chiếm Khu Lật, bắt theo hàng ngàn thợ khéo tay dâng cho nhà Đông
Ngô năm 260. Những vùng đất bị quân Lâm Ấp chiếm đóng đều bị lấy lại. Lãnh thổ
Lâm Ấp trở về vị trí cũ là huyện Tượng Lâm. Vậy nên nếu theo lịch sử thì thời
điểm này không hề có chiến hỏa tại Lâm Ấp. Nhưng sự xuất hiện của các nhân vật
xuyên đã phá vỡ hoàn toàn trật tự này. Lã Đại bị quân Đại Việt chắn tại bờ
tây Sông Hồng không có cách nào tiến lên cho được vậy nên hắn nhường lại Câu
Lậu ( Nam Định và Ninh Bình ngày nay) sau đó rút quân về Cửu Chân chuẩn bị mở
rộng địa bàn xuống phía nam đánh chiếm Lâm Ấp.
Sau 5 tháng trời chuẩn bị kĩ càng thì Lã Đại đã dòng gần 4 vạn đại quân bao
gồm cả 2,5 vạn quân Đông Ngô và Bách Việt từ phương bắc cộng thêm 1 vạn quân
ban địa tấn công Lâm Ấp. Lúc này đây Lâm Ấp không quá dùng mạnh như thời Vua
Phạm Hùng, Phạm Dật với quân đội lên đến 40 ngàn người. Lúc này Lâm Ấp còn khá
nhỏ yếu, sở dĩ họ có thể làm loạn và thành công lập quốc vì họ ở vị trí quá
xa về phương Nam so với nhà Hán. Cộng thêm tranh chấp Văn hóa Trung - Ấn nên
Nhà Hán đành chấp nhận ôn hòa giải quyết vấn đề để nhận được triều cống từ Lâm
Ấp mà thôi. Nhưng tình thế lúc này đã thay đổi hoàn toàn khi Lã Đại không còn
con đường nào khác là mở rộng xuống phía nam. Lã Đại thà đánh nhau với chục
vạn quân Lâm Ấp cũng không muốn đánh nhau với một hai vạn quân Đại Việt với
trang bị đầy đủ và hiện đại như vậy. Nên nhớ rằng trong lịch sử thì, Phạm Dật
qua đời năm 336, tể tướng Phạm Văn (Fan Wen) cướp ngôi. Phạm Văn không phải là
người Lâm Ấp mà là một người gốc Hoa quê ở Dương Châu, bị bán làm nô lệ cho
một quan cai trị huyện Tây Quyển tên Phạm Tương. Năm 15 tuổi, vì phạm tội, Văn
trốn theo một thương gia người Lâm Ấp sang Ấn Độ buôn bán, nhờ đó đã học hỏi
được kỹ thuật luyện kim và xây thành lũy của người Hoa. Khi về lại Lâm Ấp năm
321, Văn trở thành người thân tín của Phạm Dật và được giao trọng trách xây
thành, đắp lũy, dựng cung đài theo kiểu Trung Quốc, chế tạo chiến xa và vũ
khí, nhạc khí v.v. và được thăng chức tể tướng.
Dưới thời Phạm Văn, kỹ thuật luyện sắt (rèn kiếm, đúc lao) đạt đến tột đỉnh.
Vua áp dụng văn minh Ấn Độ vào đời sống: cải tổ hệ thống quan lại theo khuôn
mẫu Ấn Độ, nhờ đó tổ chức chính quyền mang lại hiệu quả tốt; xây dựng thủ phủ
tại Khu Lật (K'iu-sou, hay Thành Lồi, Huế), hình chữ nhật, chu vi 2.100 mét,
tường cao 8 mét, có 16 cửa, dân chúng sống xung quanh chân thành, mỗi khi có
loạn, các cửa thành đều đóng lại. Với thế mạnh này, Phạm Văn đánh thắng hai
nước Đại Kỳ Giới và Tiểu Kỳ Giới (Vị trí tại vùng đất nhỏ tại biên giới Lào
,Campuchia và Việt Nam ngày nay), chinh phục nhiều bộ lạc khác như Che Phou,
Siu Lang, Khiu Tou, Kan Lou và Fou Tan, tăng cường số phụ nữ mang về từ các
lãnh thổ đánh chiếm được và tăng quân (khoảng từ 40.000 đến 50.000 người). Lúc
này đây quân Lâm Ấp không hề mạnh mẽ như vậy đây là lý do mà Lã Đại quyết định
du ngủ Nguyên Quốc bằng việc nhượng bộ tại sông Hồng để yên ổn tiến đánh Lâm
Ấp.