Người đăng: KennyNguyen
Về hành chính thì tạm chấm dứt sau cú shock tham nhũng và các phương án giải
quyết kịp thời của Nguyên Quốc . Nhưng về mặt quân sự có rất nhiều điều cần
quan tâm mà trong đó sự việc mệt mỏi nhất là chờ đợi quân Đông Ngô sẽ tăng
binh chiếm đóng Giao Châu sau đó sẽ là một cuộc thử lửa không khoan nhượng của
quân đội Đại Việt và một Đông Ngô hùng mạnh. Thế nhưng Nguyên Quốc đợi đến
dài cả cổ đợi đến ức chế tâm lý mà không hề có một dấu hiệu nào đối với sự
suất hiện tăng viện của Đông Ngô. Quanh đi quẩn lại chỉ có 1,5 vạn quân hỗn
hợp Đông Ngô, Bách Việt tại Hợp Phố thi thoảng cử vài nhóm nhỏ bộ binh tiến
hành quấy phá phòng tuyến sông Ka Long mà thôi. Thế nhưng quân Đông Ngô có mặt
tại Hợp Phố với sự dẫn dắt của Lục Y cũng không hề tổng lực tấn công. Những
lần tiến đánh phòng tuyến Sông Ka Long của họ chỉ tầm 1000 người đến 3 ngàn
người là nhiều. Nói là tiến đánh nhưng thực ra mang tính hành quân tuần tra
thăm dò biên giới lãnh địa Hợp Phố mà thôi, va chạm lẻ tẻ giữa các nhóm thám
bao thì có nhưng đánh trận lớn thì không có sảy ra lần nào. Hiện tượng này kéo
dài từ tháng 6 đến tháng 12 năm 230 và còn có thể kéo dài hơn nữa vì lúc này
Nguyên Quốc đã thành công theo đưa được các nhóm thám bào nhỏ vào sâu địa phận
Hải Nam, Xương Ngô theo đó thong tin truyền về thì phía Đông Ngô không hề có
hiện tượng động binh tăng viện cho chiến trường Giao Châu. Đây là một điểm cực
kì khó hiểu đối với Nguyên Quốc.
Nhưng Đông Ngô không tấn công ngay càng tốt cho Nguyên Quốc, để Đại Việt có
thời gian nghỉ ngơi càng lâu thì quân đội Đại Việt càng mạnh mẽ. Nên nhớ
quân đội Đại Việt bành chướng quá nhanh từ 3000 người tăng lên thành 27 ngàn
người cả quân chính quy lẫn dự bị. Số quân hơn ba ngàn lão binh của Đại Việt
còn được luyện tập kĩ càng chứ số quân mới bành trướng ra hoàn toàn là nông
dân cầm vũ khí kể cả nghĩa đen lẫn nghĩa bóng. Cứ cho là gần hai vạn quân mới
bổ xung là quân đội Âu Lạc được Lã Đại trả về cũng có kinh nghiệm tác chiến
nhất định. Nhưng đó hoàn toàn là cách tác chiến kiểu bộ lạc theo từng nhóm
nhỏ. Du kích chiến thì họ thực hiện rất tốt, thế nhưng dàn quân, bày trận theo
đội ngũ hay công thành chiến, thủ thành chiến thì những binh sĩ Âu Lạc này
hoàn toàn không phải là quen thuộc. Một điểm chết người là những quân nhân này
không mấy kỉ luật, mà kỉ luật mới có thể xây dựng nên quân đội chính quy.
Chính vì lý do này việc ma luyện, rèn quân, đúc quân rất cần thiết, do đó Đông
Ngô để cho Đại Việt có thời gian "hít thở" thì Nguyên Quốc đúng là phải đưa
tay lên vái lạy ông trời nhân từ. Vì càng có thời gian ý nghĩa càng có ít
thương vong sau này trên chiến trường. Đại Việt đất ít dân thưa tổng số gom
góp lại hiện nay được tầm 8 vạn, trừ đi người già, phụ nữ, trẻ em thì số người
có thể ra trận đều thành binh sĩ cả rồi. Vậy nên giờ đây mỗi binh sĩ của Đại
Việt đều là tài sản quý báu của quốc gia, Nguyên Quốc không bao giờ cho phép
sự lãng phí sinh mạng sảy đến.
Lại nói tiếp về phòng tuyến Sông Ka Long… đây chính là con sông vắt ngang qua
biên giới Việt Trung vào thế kỉ 21 cũng như lúc này đây nó đang trở thành biên
giới tạm thời giữa Đại Việt và Đông Ngô. Sau khi quân Đông Ngô rút khỏi Khúc
Dương thành thì thẳng một mạch chạy về Hợp Phố bởi thành nhỏ Ninh Hải không có
khả năng đồn trú cho hơn một vạn quân sĩ… mà thật ra quân Đông Ngô khi rút
khỏi Khúc Dương cũng quá vội vã mà không mang theo đủ lương thực. Chính vì lý
do này họ bắt buộc phải chạy về Hợp Phố những mong tập hợp lại lực lượng để
tái chiếm Giao Châu. Sau 3 tháng chờ đợi không có kết quả vào tháng 9 năm 230
Nguyên Quốc quyết định chia 3000 binh từ thành Khúc Dương tiến thêm 60km về
phía thành Ninh Hải sau đó tiến hành xây dựng phòng tuyến bên bờ Sông Ka Long.
Kể từ đó Ka Long giang trở thành phân tuyến giữa hai bên cho đến ngày hôm nay.
Nói Phòng Tuyến Sông Ka Long chỉ mang tính tạm thời vì vùng đất Ninh Hải hoàn
toàn không có nhiều địa điểm quá hiểm trở để tạo thành một phòng tuyến mạnh
như Khúc Dương. Ít nhất Khúc Dương còn có Sông Lục Hải với độ rộng đủ để chiến
hạm hỗ trợ bộ binh ngăn chặn quân Hán vượt sông. Thế nhưng sông Ka Long bề
rộng chung bình chỉ hơn 100m chính vì thế mặc dù thuyền chiến có thể đi lại
một cách chậm dãi nhưng hoàn toàn nằm trong tầm bắn của đối phương bên kia bờ.
Chính vì lý do đó chúng không thể nào có tính uy hiếp lớn đối với quân địch
cả. Những lý do trên góp lại thì Phòng tuyến Ka Long chỉ mang tính tạm thời và
cảnh báo. Tức là nếu quân địch chỉ đem 5000 binh trở xuống thì phòng tuyến Ka
Long binh sĩ Đại Việt sẽ tiếp đến cùng. Nhưng nếu quân địch quá đông thì họ
sẵn sang bỏ lại phòng tuyến này mà rút về song Lục Hải. Quan trọng của loại
phòng tuyến này là chúng có tính chất cảnh báo nhất định để Phòng tuyến Lục
Hải chuẩn bị chiến đấu một cách chủ động. Ngoài ra 3 ngàn binh tại Ka Long
liên tục được luân chuyển cùng Khúc Dương để binh sĩ nào cũng có thể được mài
rũa trong cách chiến đấu mới của Đại Việt điều này khiến Ka Long thành nơi
luyện binh thực chiến lớn nhất của Đại Việt vào lúc này.
Ngày 23- 12 năm 230 dân chúng Bắc Đái đang chuẩn bị một cái tết đầu tiên khi
họ thành lập quốc gia mới thì một sự kiện mang tính bước ngoặt lịch sử ra đời.
Vậy mà tại Luy Lâu thành tiếp nhận một đoàn thuyền buôn từ Ấn Độ cập bến.
Nguyên Quốc vẫn biết con đường tơ lụa trên biển có xuất hiện từ Đông Hán khiến
cho việc có hai tuyến đường song song cùng tồn tại để luân chuyển hàng hóa
giữa Đông và Tây thế giới. Nhưng đó chỉ là những tranh cãi khảo cổ vào thế kỉ
21 mà thôi. Mặc dù có quá nhiều bằng chứng khảo cổ mạnh mẽ chứng minh con
đường tơ lụa trên biển có từ đầu công nguyên nhưng giới khoa học khảo cổ và
lịch sử vẫn có một số đối tượng cứng đầu cứng cổ mà khư khư giữ quan điểm
Trịnh Hòa thời Minh mới là người đầu tiên thực hiện các chuyến đi vượt đại
dương này.
Tuyến đường buôn bán từ Ấn Độ đến Gian Đông đã có từ lâu, mặc dù tính chất cảu
chúng là tự phát, nhỏ lẻ và cá nhân là chính song tuyến đường này thực sự tồn
tại. Vì thời này không thể có công nghệ đóng các tàu biển xa bờ vậy nên tuyến
đường Tơ lụa trên biên thời Đông Hán chính xác là men theo bờ đại lục mà tiến
lên, chính vì lý do này có rất nhiều sự pha trộn văn hóa của Trung và Ấn trên
tuyến đường này. Và rất tình cờ rằng Luy Lâu lại chính là một trong những điểm
dừng chân và tiếp tế lương thực cũng như nước ngọt cộng thêm trao đổi một số
mặt hàng nhất định cho đoàn thuyền buôn từ Trung Á này.
Theo các nguồn sử liệu cùng các bằng chứng khảo cổ, các nước phương Tây và
phương Nam muốn buôn bán, giao thiệp với Trung Quốc đều phải theo con đường
Giao Chỉ. Từ trước Công Nguyên và nhất là từ thế kỷ II-III sau Công Nguyên trở
đi, ngày càng có nhiều thương nhân nước ngoài đến buôn bán ở Giao Châu và
thuyền buôn của họ thường xuyên có mặt ở Luy Lâu. Những chứng tích vật chất và
các nguồn tài liệu ở Luy Lâu đã khẳng định Luy Lâu thực sự là trung tâm thương
mại lớn - một đô thị cảng mang tính quốc tế của nước ta thời Bắc thuộc. Tất
nhiên lúc này đây Nguyên Quốc chiến được cả một miền Bắc Giao Châu nhưng các
thương nhân này nào để ý, tin tức của họ cũng chưa hề cập nhật, mà thêm vào đó
kể cả có thay đổi chế độ thì các thương nhân này cũng không quá sợ hãi. Lợi
ích là trên hết, không một vị quân vương nào ngu dốt đến nỗi đi cướp bóc của
thương nhân dẫn đến tự đập bát cơm lợi ích của mình.