Người đăng: KennyNguyen
Sự thật chứng minh rằng những tiến bộ khoa học thời hiện đại chưa chắc đã
thích hợp để áp dụng cho những kẻ xuyên việt. Nhất là những kẻ mộng mơ muốn
dùng ba cái kiến thức mèo cào của mình để thay đổi cả thế giới. Nhưng lại có
một con đường cho những kẻ xuyên việt có thể phát huy toàn bộ kha năng cảu họ
ở thế giới kém văn minh nêu họ đủ nghiêm túc mà nghiên cứu về thế giới đó. Và
Nguyên Quốc chính là một kẻ như vậy, sai những khó khăn, có thất bại, có hi
sinh, càng có nhiều bất lực thì hắn hiểu ra một chân lý có bản… Nguyên Quốc
hắn chỉ là một con kiến hôi tại nơi này mà thôi. Điều khác biệt là con kiến
hôi Nguyên Quốc có chút kiến thức vượt thời gian mà thôi… nhưng chừng đó không
bao giờ là đủ.. trừ khi hắn có thể chế tạo ra súng máy, bom nguyên tử v.v…
Nhưng điều đó là bất khả thi, hoàn toàn không có khả năng thành hiện thực… Vậy
nên bao nhiêu mơ ước vực dậy cả một dân tộc của hắn giờ đây lại biến thành
thỏa hiệp… cố gắng để Âu Lạc có thể tồn tại… có thể có một vị trí nào đó trong
bản đồ khu vực mà thôi… Và chính suy nghĩ tưởng như thụt lùi này lại quá chính
xác với hoàn cảnh hiện tại… Câu nói " biết người biết ta trăm chận trăm thắng"
ý nghĩa thực sự của nó là làm người phải biết mình là ai và đang đứng ở vị trí
nào thì mới có thể tránh được thất bại thảm thiết.
Chính vì những suy nghĩ đó mà trong thời gian qua định đô tại Bắc Đái việc
Nguyên Quốc làm nhiều nhất đó là thực sự nghiêm túc tìm hiểu về công nghệ cũng
như văn hóa hiện có của người Âu Lạc để tận dụng nó hòa hợp thêm với các lý
niệm phù hợp của hiện đại để tạo nên một chút thế mạnh trong cuộc cạnh tranh
sinh tồn của Người Âu Lạc. Và chính trong thời gian ngắn ngủi nghiêm túc tìm
hiểu về văn minh Âu Lạc này thì Nguyên Quốc đã thành công tạo nên rất nhiều
đột phá cho người Việt cổ, nhất là về mặt sản xuất cũng như quân sự.
Ví dụ điển hình nhất đó chính là những tấm giáp "vật liệu tổng hợp" đang được
chế tạo hàng loạt kia. Với tốc độ này thì một thời gian ngắn thôi quân Đại
Việt sẽ có được lớp "Bảo vệ" cực kì cường đại kể cả nghĩa bóng lẫn nghĩa đen.
Đột phá về mặt chế tạo vật liệu lại chính là từ bàn tay kéo léo của người Việt
cổ khi họ đã có được công nghệ chế tạo keo Gelatin của mình từ da, xương động
vật, cùng bong bong cá… Ngoài ra người Việt cổ chính là bậc thầy trong việc
tạo ra một vật liệu đó chính là Sơn, chế tạo từ nhựa cây Sơn mà chỉ có mọc tại
vùng đất Quảng Đông, Quảng Tây thời hiện đại, và Giao Châu lúc này. Chính hai
vật liệu keo dính khá chất lượng này khiến cho ngành công nghiệp " vật liệu"
của Đại Việt bước qua một trang mới chói lọi.
Các sợi mây được sấy khô rồi ép dẹt bằng các máy ép, sau đó chúng được dán với
nhau thành các tấm mỏng không hề có khe hở…. Các sợi thép nhỏ theo kĩ thuật
"Ram" của chuyên gia rèn đúc làng Đa Sĩ cũng được kéo một cách nhẹ nhàng thành
các sợi mỏng manh rồi đem đan với nhau thành các tấm thép…. Các tấm mây mỏng
cùng thép mỏng lại được dán lại với nhau và ép chặt trong các cỗ máy ép tạo
hình "công nghiệp". Tùy theo từng loại quân mà số lượng các tấp thép đan và số
lượng tấm mây được điều chỉnh cho hợp lý. Nói đến khủng bố nhất thì phải kể
đến giáp của loại binh chủng dùng cung dài và trường thương với 3 lớp lưới
thép và 4 lớp mây. Loại giáp "nặng nề" này có lực phòng thủ siêu cường mà bất
kì kẻ địch nào cũng phải lắc đầu ngán ngẩm nếu phải va chạm thực sự. Lực phòng
ngự cua nó mạnh mẽ hơn nhiều kiểu giáp được làm bang cả tấm thép chất lượng
thấp của quân Hán, nhưng trọng lượng lại chỉ bằng một nửa. Chính điều này làm
cho thể hình vốn không quá lý tưởng của người Đại Việt có thể chịu đựng được
một cách nhẹ nhõm. Còn nói đến giáp của thủy binh thì gồm toàn là các lớp mây
ép dinh với nhau và dán bên ngoài bằng da cá sấu. Lực phòng ngự của chúng thì
kém hơn giáp lưới thép nhưng lại có thể nổi được dưới nước… đây mới là điều
quan trọng nhất dành cho thủy binh.
Trong 3 tháng quân và dân Đại Việt phải hứng chịu đến 2 cơn bão lớn ập vào
vịnh Bắc Bộ, nhưng cũng chính những cơn bão này lại chứng minh một điều đó là
hệ thống tưới tiêu của 7 vạn dân Đại Việt cặm cụi chuẩn bị trong thời gian
qua tỏ ra hiệu quả vô cùng… Mùa bão của giải đất vùng Giao Châu thường từ
tháng 6 đến tháng 12. Tháng 9-10 nhiều bão ảnh hưởng hơn cả, khoảng 2 cơn
trong một tháng. Tháng 5 và tháng 7, từ 5 – 7 năm mới có một cơn bão. Thường
thì bão vào Vịnh Bắc Bộ thường tới sớm, cong bão muộn thì thường sẽ tập trung
vào trung bộ hoặc đi lệch về hướng Đông Ngô lúc này… Vậy nên trong 3 tháng vừa
qua quân Đại Việt không hề có một chút lo lắng nào về việc Đông Ngô sẽ dẫn
binh theo đường thủy mà tiến hành xuôi nam tấn công Đại Việt . Người Hán
cũng không ngu đến mức cho thủy quân ra biển đi cả 2500km tấn công Giao Châu
bé nhỏ vào mùa bão. Hai cơn bão đi qua thì chỉ có một là ảnh hưởng trực tiếp
đến vùng Nam Triệu và gây mưa lớp, lụt lội tại Bắc Đái, khiến cho hệ thống
tưới tiêu nơi này dù có cường đại thì 30% hoa màu bị mất trắng. Nguyên Quốc
đành phải ra lệnh miễn giảm 50% thuế nông nghiệp năm nay cho người dân sống
xung quanh Bắc Đái. Nhưng người dân tại đây thì hạnh phúc vô cùng, bởi theo
kinh nghiệm của họ thì với cường độ cơn bão như vậy nếu vào thời điểm trước
kia thì họ mất trắng cả rồi… nay còn có đến 70% có thể tồn tại thì đó quả là
một điều kì tích rồi. Cơn Bão thứ hai thì đi vào An Định khiến cho diện tích
hoa màu các quân sĩ nơi đây trồng trọt thiệt hại đến 60%… đây cũng là vì
Nguyên Quốc quyết không phát triển nhiều tại An Định, ngay cả việc làm thủy
lợi hắn cũng không dặt toàn lực… An Định là một thành trì có thể mất bất kì
lúc nào vào tay Lã Đại nên Nguyên Quốc không muốn đầu tư nhiều tinh lực vào
nơi này.
Kể cả gặp 2 cơn bão mạnh như vậy nhưng người Đại Việt vẫn rất lạc quan, bởi
với hệ thống tiêu úng khá hoàn thiện như hiện nay thì cho dù đến hết mùa bão
thì Đại Việt khả năng cao vẫn là một năm được mùa bội thu. Nhất là diện tích
gieo trồng tại Khúc Dương sẽ được đảm bảo rất nhiều do hệ thống tiêu úng nơi
đây được 1 vạn quân sĩ Đại Việt ngày đêm ra sức hoàn thiện, cộng thêm hàng
ngàn đảo nhỏ ngoài vịnh Lục Hải ( Vịnh Bái Tử Long và Vịnh Hạ Long ngày nay)
tạo thành một bức bình chướng thiên nhiên che chắn gió bão….
Nhưng khoan hãy nói về tháng 11 tại Đại Việt mà hãy nói về tháng 11 tại Vũ
Xương và Quế Dương, tháng 11, Tô Quý Nhân Tô Hương Lan đã hạ sanh một hoàng
trữ khỏe mạnh cho Đông Ngô và được Tôn Quyền đích thân theo thuyền từ Vũ Xương
chạy đến miền Quế Dương xa xôi thăm hỏi… Thật ra thì việc một hoàng trữ ra đời
không nhất thiết khiến một vị Hoàng đế quan tâm đến mức phải đi xa đến như vậy
để quan khan thế nhưng mẫu thân của tên hoàng trữ này không phải là người
thường… nàng vậy mà là nắm giữ vận mệnh thành tiên của Tôn Quyền vậy nên không
đi thăm là không thể được. Tôn Quyền chỉ sợ lâu ngày xa nhau vị Tô Phu nhân
này "phật ý" mà dở chứng thì công lao "tu tiên" bấy nhiêu của hắn đổ bể bằng
hết. Vậy nên quan tâm một chút hai mẹ con nhà Tô Hương Lan là phải đạo rồi.
Không phải Hữu Hải không muốn tự mình trồng cây Anh Túc, nhưng có hai nguyên
nhân khiến hắn không dám thực hiện. Thứ nhất hắn sống tại Vũ Xương nên khí hậu
nơi đây không quá thích hợp trồng Anh Túc, thứ hai nếu trồng nơi này thì nhiều
người đông mắt bí quyết về thuốc phiện rất dễ bị lộ. Lộ ra rồi chính là tử
vong… Bí mật cây Anh Túc chỉ có Hương Lan và Hữu Hải biết được vậy nên không
còn cách nào khác Hữu Hải đành phải để cho Hương Lan đứng ra làm người nắm giữ
quyền khống chế đầu mối thuốc phiện. Mà Hữu Hải hắn cũng không mấy sợ hãi xét
cho cùng địa vị xã hội của người phụ nữ trong Hán tộc không dậy nổi song… Hữu
Hải và Hương Lan đã mật ước mà phân chia địa ban rồi vậy nên nếu nước song
không phạm nước giếng thì Hữu Hải hắn cũng yên tâm mà giao chút quyền lực này
về tay Hương Lan vậy.