Người đăng: KennyNguyen
Thật ra Nguyên Quốc hoàn toàn có thể miễn thuế trong năm nay cho dân chúng Đại
Việt tộc. Việc nhiều lần chiếm đoạt được các kho lương thực đủ để Nguyên Quốc
tiếp tế 7 vạn quân và dân trong thời giam 2 năm. Nên biết rằng lương thực tại
các thành trì trên đất Giao Châu là do bè lũ nhà họ Sĩ tiến hành bóc lột Việt
tộc mà gom lại, tiếp theo đó Sĩ Huy bị đánh bại quá nhanh mà chạy về Cửu Chân
nên không thể mang theo... Lã Đại cũng không thể vận chuyển quá nhiều lương
thực dự trữ từ các thành trì vì việc vận chuyển thời này cực không thuận lợi.
Lã Đại thường dùng cách cướp đoạt tại chỗ vừa nhanh vừa tiện lợi. Chính điều
này đã để lại cho Nguyên Quốc một lượng lương thực khá lớn để duy trì an ninh
lương thực cho quốc gia non trẻ của hắn. Việc kháng chiến của Đại Việt không
phải chỉ có vài ngày mà là một cuộc kháng chiến trường kì. Nguyên Quốc biết
rằng nếu muốn thống nhất lại toang bộ lãnh thổ Việt Tộc Âu Lạc sẽ là một cuộc
chiến cực kì gian khổ . Vậy nên tích góp lương thực để dành cho chính phủ, cho
quân đội là nhiệm vụ thiết yếu của Nguyên Quốc lúc này.
Ngoài việc phát triển về nông nghiệp thì về quân sự Đại Việt cũng có những
bước tiến thật dài . Trang bị luôn là vấn đề được ưu tiên hàng đầu của Đại
Việt khi mà số lượng binh sĩ của họ từ 7 ngàn tăng vọt lên 3 vạn người. Những
trang bị thu được từ quân Đông Ngô vừa không đủ về số lượng, vừa không đạt
tiêu chuẩn về mặt chất lượng, lại không phù hợp về mặt đòi hỏi riêng. Chính
những lý do này đã ép cho cục quân khí Lý Ngũ làm lãnh đạo gần như bị vắt kiệt
sức lao động.
Thật ra tiền thân của cục quân khí chính là “nhóm” lính hậu cần gồm các thợ
đúc đồng tại thành Khúc Dương với nhân số 100 người, rồi theo nhu cầu mà nhóm
lính này được mở rông ra 200.... người 500 người và giờ đây họ được biên chế
thành một lực lượng chuyên biệt về chức năng với 3000 người, trong này có cả
một ít phụ nữ và thiếu niên. Tổ chức này có tên là cục quân khí với người lãnh
đạo là Lý Ngũ và nơi đóng quân là thành Chi Lăng hoàn toàn biệt lập. Nơi đây
chứa những máy móc sản suất vũ khí cũng như dụng cụ sinh hoạt hiện đại vào bậc
nhất của thế giới lúc này. Đây là những cỗ máy cán thép, nén thép, rút thép
v,v... Được làm tương tự như tại Khúc Dương thành trước đây nhưng quy mô thì
vĩ đại hơn nhiều.
Những cỗ máy này được cung cấp động lực từ 30 con voi trưởng thành. Đây chính
là một trong nhừng yêu tiên cực lớn khi toàn bộ số voi vủa Đại Việt chỉ có lớn
nhở gần 100 đầu mà thôi. Chính việc quy chuẩn hóa công việc sản xuất theo dây
chuyền và được hỗ trợ bởi máy móc cơ giới vậy nên những vũ khí kiểu đơn giản
và có thể sản xuất hàng loạt đều không phải vấn đề lớn đối với quân Đại Việt .
Những vũ khí phức tạp kiểu như Katana, nỏ ballista cánh thép, đều bị khai trừ
khỏi mục tiêu chế tạo của quân Đại Việt . Phương châm của Nguyên Quốc đó là
đồng bộ hóa tất cả các trang bị của quân Đại Việt, đến cỡ như khi hai quâm
đoàn ở hai cực của Đại Việt cần thay trang bị hay sát nhập vào nhau đều có thể
sử dụng chung vũ khí của nhau.
Đừng nghĩ chuyện này đơn giản, đây là một bước dài để biến sản xuất tiểu thủ
công nghiệp bước lên sản suất công nghiệp hóa. Chỉ đơn giản ví dụ như kiếm
Gladius sẽ được nung quặng lò cao tại Chi Lăng với mỏ thép chất lượng cực tốt
tại đây. Sau đó các mẻ thép này sẽ được cán thành những thanh sắt theo kích
thước nhất định, bởi những máy cán thép vận hành bằng sức kéo của các con voi.
Tiếp theo những thanh sắt này sẽ được chặt làm các kích cỡ khác nhau đê chế
tạo 3 loại kiếm Gladiolus tiêu chuẩn của quân Đại Việt, ngắn 65 cm, trung
bình dài 80 cm, và trường kiếm dài 100cm. Tất cả các thanh sắt này lại được
chuyển qua bộ phận rèn máy ban đầu với các búa máy vận hành bởi lực kéo của
động vật. Các búa máy này có nhược điểm đó là không có sự cảm nhận tinh tế của
những người thợ rèn, nhưng những chiếc búa máy kiểu như thế này lại có một ưu
điểm tuyệt đối đó là tốc độ rèn tăng cao đến kinh người. Việc phân bổ dây
chuyền sản xuất đã làm cho tốc độ chế tạo vũ khí của Đại Việt rất nhanh, việc
áp dụng các máy móc bán cơ khí vào sản xuất lại càng làm cho tốc độ của việc
chế tạo công cụ nói chung và vũ khí nói riêng của Đại Việt tăng chóng mặt. Tất
nhiên thứ đồ sản xuất hành loạt không thể tốt như những thứ nắn nót chế tạo
từng chiếc một một cách chi tiết cẩn thận. Nhưng nên nhớ một chuyện phôi thép
được nung ra từ lò cao và lò thổi của Nguyên Quốc chất lượng cực tốt. Kĩ thuật
thôi thép theo kinh nghiệp đoán nhiệt độ thông qua màu sắc lửa trên lớp muối
rắc trên các thanh sắt, cộng thêm bản thân chất lượng quặng tại mỏ thép Chi
Lăng cũng đặc biệt tốt. Vậy nên các sản phẩm thép của cục quân khí tuy là lọa
sản phẩm sản xuất hàng loạt nhưng chất lượng vẫn cao hơn nhiều sản phầm cùng
loại suất xứ Đông Ngô nói riêng hay Hán tộc nói chung.
Riêng chỉ nói đến cách tách xỉ tạp chất khỏi thép ở lò cao đã là tiến bộ vượt
thời đại. Những thanh kiếm Đại Việt mỏng hơn, nhỏ hơn, nhẹ hơn, nhưng bền hơn
quá nhiều so với những thanh kiếm sắt to bè nhưng đầy tạp chất xỉ quặng ẩn
trong thân dễ gây nên hiện tượng nứt vỡ.
Mặc dù có được những lợi thế không thể đong đếm được từ những công nghệ từ
tương lai nhưng Đại Việt cũng phải mất 3 tháng mới trang bị đầy đủ hoàn toàn
vũ khí cho 2 vạn tân quân của họ. Trong 2 vạn tân quân này có tới một nửa được
trang bị cung dài với hệ thống trợ lực. Một nửa còn lại là cung ngắn để chiến
đấu du kích với cách trang bị này thì ý đồ quyết tâm phòng thủ các cứ điểm
quân sự được bộc lộ một cách rõ ràng nhất. Những cung thủ được trang bị trường
cung sẽ được đồng thời trang bị thương dài cộng thêm giáp nặng và một đoản
kiếm gladius . Lực lượng này thực sự tốc độ di chuyển và tính cơ động không hề
đáng khen ngợi chút nào. Nhưng đây là lực lượng trung kiên thủ thành cực mạnh
với lực công kích và phòng ngự cực mạnh.
Lực lượng tiếp theo là 5000 binh sĩ sử dụng trường kiếm Gladious 2 tay dài đến
110cm cũng trang bị thêm cung ngắn và áo giáp siêu dày và nặng với lực phòng
thủ không thể đong đếm trong thời kì này. Chỉ có 5000 binh sĩ sử dụng kiếm
Gladious 60cm với trang bị giáp nhẹ khiên cùng cung ngắn. Đây là lực lượng
mang tính cơ động với công năng toàn diện nhất. Tất nhiên tính về tốc độ họ
không bằng 1500 kị binh của Đại Việt nhưng nếu chỉ xét trên khía cạnh địa hình
phức tạp của Giao Châu thì đây mới là đạo quân cơ động nhất. Tất nhiên 2 vạn
tân quân này vẫn có thiên hướng về phòng thủ là chính mà lực lượng mang tính
công kích bá đạo của Đại Việt lại là gần 1 vạn quân chính quy biên chế hết vào
thủy quân.
Với địa hình sông ngòi chằng chịt và bờ biển rộng kéo dài thì thủy binh Đại
Việt mới là lực lượng chính được đầu tư để công kích địch nhân.
Không thể không nói đến 3 tháng vừa qua là 3 tháng điên cuồn săn giết cá Sấu
của thủy binh Đại Việt trên mọi vùng, lãng địa thuộc quyền quản hạt của họ.
Tất cả cũng chỉ vì Đại Việt cần một lượng lớn gân cá sấu dành cho việc chế tạo
dây cung chất lượng cao. Thêm vèo đó da cá sấu cũng là một chất liệu tuyệt hảo
cho việc chế tạo áo giáp nhẹ và cực bền chắc. Nhưng áo giáp của quân Đại Việt
lúc này đã hoàn toàn đổi mới, chúng không còn là những sợi mây đơn sơ ngâm dầu
cho dai rồi đan lại với nhau như trước kia nữa. Những tấm giáp mây kiểu cũ đó
phòng thủ chặt chém từ đối phương nhưng lại kém về việc phòng thủ động tác đâm
cũng như mũi tên. Nếu muốn phòng bị mũi tên thì chúng phải được đan đến 2,3
lớp rất cồng kềnh khó thích hợp cho tác chiến. Tất nhiên giáp mây bọc da sẽ có
lực phòng ngự vượt trội giáp da của quân Đông Ngô nhưng lại không mạnh mẽ bằng
giáp vảy thép của Đông Ngô . Tất nhiên đội giáp binh siêu tinh nhuệ đó của
Đông Ngô quân Đại Việt chưa gặp qua, trước giờ thật ra họi chỉ chiến đấu cùng
quân hạng hai của Đông Ngô mà thôi. Nhưng phòng bệnh hơn chữa bệnh, việc tạo
ra một trang bị áo giáp với chất lượng cao, trọng lượng nhẹ để phì hợp với cả
cách tác chiến cũng như thể trạng người Việt đã là băn khoăn bấy lâu nay của
Nguyên Quốc. Hắn không muốn toàn quân của hắn ăn một mồi lửa mà táng mạng như
quân giáp mây của Mạnh Hoạch.
Kế hoạch thì Nguyên Quốc đã có sẵn trong đầu rồi nhưng quả thật hắn không có
thời gian thực hiện mà thôi. May mắn thay tham vọng của Lữ Đại đã vô tình để
cho Đại Việt non trẻ của Nguyên Quốc thở dốc một hồi . Ngay lập tức áo giáp
mây đan tạm bợ của quân sĩ Đại Việt đã được thay thế bởi một loại giáp cường
đại hơn rất nhiều lần.