Người đăng: KennyNguyen
Nhưng nói đến tại sao tên Việt gian Hữu Hải lại có được thuốc phiên thì chuyện
này cũng không có gì khó hiểu. Quê hương của Anh túc ở miền Trung Á, Ấn Độ và
Iran. Như một hình ảnh của mầm hoa cây thuốc phiện (anh túc) từ xưa đã được
chêm vào các hình tượng tôn thờ, rất lâu trước khi thuốc phiện được tìm ra
trong các hạt cây này. Trên hình điêu khắc nổi từ cung điện của Ashurnasirpal
II ở Nimrud (870 TCN - 879 TCN), có một vị thần có cánh tay ôm một bó hoa...
thuốc phiện thân dài. Trong quả Anh túc chất nhựa trắng, lấy ra phơi khô thành
thuốc phiện, trong đó chứa 10% morphin nhưng thời này không ai biết chuyện
này. Tại Trung Á, Ấn Độ và Iran lúc này chỉ biết sử dụng "vỏ ngự mễ" hoặc "anh
xác". Sau khi"lấy nhựa", mùa hè sẽ thu hái, vứt bỏ hạt và đầu dài, phơi khô,
sao dấm hoặc tẩm mật ong cất giữ. Nhưng thong qua con đường tơ lụa trên biển
đến Đông Ngô thì tên Hải thu được từ thương nhân một số cây Anh túc mà những
tên này vì tò mò và hiếu kì màng về. Ngay lập tức Hữu Hãi bắt tay vèo chế tạo
viên thuốc phiện đầu tiên và đặt hàng thương nhân mang về thật nhiều trong lần
tới với giá cực cao.. cộng thêm là mang về hạt giống…
Nói vè con đường tơ lụa trên biển thì ai cũng nghĩ đến Trịnh Hòa thời nhà minh
với 7 lần đi Châu Âu và coi như là người Á Đông dầu tiên tìm ra con đường tơ
lụa trên biển. Nhưng thực sự thì đó là bịa đặt trắng trợn. Lịnh sử là do kẻ
chiến thắng viết, và thường là những cái gì tốt đẹp thì họ vơ hết vào mình mà
phủ nhận đi quá khứ lịch sử thực sự. Vật nên đôi khi đọc chính sử cũng chả thể
tin được bao nhiêu, từ đó mới có công việc cho các nhà khảo cổ gia hoạt động.
Chỉ có những bằng chứng khảo cổ mới là điểm đáng tin hơn cả khi nhìn về lịch
sử. Nếu chỉ dựa vào các ghi chép lịnh sử từ các sử quan các triều đại thì coi
như hỏng bét cả. Không nói đâu xa chỉ cần nói về sử Việt thời kì Bắc Thuộc lần
thứ nhất toàn bộ đều dựa vào sử từ nhà Hán nói nhăng bôi xấu Bách Việt tộc mà
viết.. Đó là một điều xỉ nhục đối với tộc Việt ta. Vì những thứ người Hán viết
về tộc Việt đều là nhố nhăng bôi nhọ và mạt sát tộc Việt mà thôi.
Một ví dụ như sau để chứng minh sử Hán nói về Việt tộc bôi nhọ đến bao nhiêu.
Công cuộc khai thác của những nhà đô hộ Trung Hoa chỉ nhằm phục vụ quyền lợi
Trung Hoa, nhưng lại luôn luôn tự đề cao là họ đã khai hóa dân Việt mà họ cho
là “Nam man”.Theo sách Hậu Hán thư (Hou Han shu, sách về đời Hậu Hán, viết vào
thế kỷ thứ 5): “Tục Cửu Chân làm nghề săn bắn chứ không biết dùng bò để cày.
Dân thường phải mua lúa Giao Chỉ mỗi lần bị thiếu thốn. [Nhâm] Diên bèn truyền
đúc các thứ điền khí dạy cho họ khẩn ruộng, ruộng đất trù mật, mỗi năm một
rộng thêm; trăm họ được đầy đủ. Dân Lạc Việt lại không có phép cưới hỏi, mọi
người ưa dâm dật, không quen thói sống chung với nhau, nên không biết tình cha
con, không biết đạo vợ chồng. Vì vậy Diên gởi thư đi các huyện thuộc quyền
ông, truyền cho mọi người đàn ông từ 20 đến 50 tuổi, đàn bà từ 15 đến 40 tuổi,
tất cả tùy theo tuổi tác mà cưới hỏi nhau… Trước kia trong thời Bình Đế có
Tích Quang, người Hán Trung làm thái thú Giao Chỉ, lấy lễ nghĩa dạy cho dân
Man di ăn ở, tiếng giáo hóa cũng lừng lẫy như ông Diên…Đất Lĩnh Nam giữ phong
tục Trung Hoa bắt đầu từ hai vị thái thú đó".
Đoạn văn nầy kể công hai nhân vật tiêu biểu cho các thái thú Trung Hoa, là
Tích Quan và Nhâm Diên ). Tích Quang làm thái thú Giao Chỉ (châu thổ sông
Hồng), đời vua Hán Bình Đế (1-5 SCN). Nhâm Diên làm thái thú Cửu Chân (châu
thổ sông Mã) từ năm 25 đến năm 29 (SCN) thì được gọi về Trung Hoa.
Hai nhân vật nầy, theo Hậu Hán thư, đã có công:. 1) Truyền dạy việc dùng điền
khí để cày ruộng. 2) Giáo hóa dân bản địa. Hai “sự nghiệp” nầy được các bộ sử
Trung Hoa ca tụng và được một số bộ sử Việt Nam chép theo. Thật là không thể
hiểu nổi tại sao người Việt lại đi sử dụng sách sử Hán tộc để viết nên sử của
mình Trung Hoa xưa ở vùng Hoàng Hà, trồng lúa mì và lúa mạch trên ruộng khô,
không biết lúa gạo (lúa nước), thì làm sao giỏi kỹ thuật trồng lúa gạo ở ruộng
nước mà dạy người Việt. Mà theo các bằng chứng khảo cổ học học giả Hoa Kỳ,
Nga, Trung Hoa và cả Việt Nam, cho thấy rằng Đông Nam Á là trung tâm đầu tiên
trên thế giới của nền văn minh lúa nước, rồi từ đó lan truyền đi khắp nơi trên
thế giới. tâm điểm của trung tâm văn minh lúa nước ở Đông nam Á chính là khu
vực Hòa Bình ở Bắc Việt. Hòa Bình nằm trong khu vực uốn khúc của sông Đà để đổ
lên sông Hồng, gần huyện Mê Linh (tức Phú Thọ, Vĩnh Phúc), quận Giao Chỉ thời
cổ Việt, nơi phát tích của Hai Bà Trưng. Mà theo các khảo cổ bằng chứng cùng
phép đo đạt đồng vị tính tuổi thọ thì dân Lạc Việt ở Đông Nam Á đã biết trồng
lúa và biết cách đúc đồng sớm hơn các miền Cận đông, Ấn Độ và Trung Hoa. Nền
căn minh của lạc Việt phải thuộc hàng bá đạo nhất thế giới nếu không bị quấy
nhiễu bôi xóa cũng như mạt sát của những tên giặc Bắc.
Mê Linh (Vĩnh Phúc, Phú Thọ ngày nay) quận Giao Chỉ (châu thổ Hồng Hà), người
ta tìm thấy những bộ xương trâu đã có mặt tại đây khoảng 2,000 năm trước Công
nguyên, và hai lưỡi cày bằng đồng theo mô thức Đông Sơn (thế kỷ thứ 5 TCN).
Trong lúc này dân Hán đang dùng cuốc gỗ mà nai lưng trên đồng khô lao dịch…
nghĩ cũng biết là ai hơn.
Trong sách Ancient China (1967), tác giả Edward H. Schafer viết rằng: “Thuật
trồng lúa gạo và thuần hóa gia súc chắc chắn [Trung Hoa] đã tiếp thu từ các
sắc dân tầm thường ở miền nam xa xôi hẻo lánh [nam Man].” (Nguyên văn: “The
art of cultivating rice and domesticating cattle were doubtless adopted from
the despised races of the remote south.”) Đây là một bằng chứng của vừa ăn cắp
vừa la làng. Đã học trộm của người ta lại còn tự rát vàng lên mặt mình.
Ngoài Nhâm Diên, thái thú Tích Quang “lấy lễ nghĩa dạy cho dân Man di ăn ở,
tiếng giáo hóa cũng lừng lẫy…”. Lễ nghĩa mà Tích Quang phổ biến cho dân chúng
cổ Việt chắc chắn không ngoài lễ nghĩa Nho giáo, với ba giềng mối chính là tam
cương (vua tôi, chồng vợ, cha con) và năm đạo chính là ngũ thường (nhân,
nghĩa, lễ, trí, tín). Ai cũng biết Nho giáo là một triết thuyết chính trị hậu
thuẫn cho chế độ quân chủ, trong đó đứng đầu là đạo “trung quân”. Trung quân
có nghĩa là trung thành với vua. Lúc đó cổ Việt không có vua; chỉ có vua Trung
Hoa. Trung thành với vua Trung Hoa là mặc nhiên chấp nhận nền đô hộ của Trung
Hoa. Như thế, lễ giáo của Tích Quang cũng chỉ để ổn định xã hội và phục vụ cho
công cuộc thống trị của thực dân Trung Hoa.
Công việc “giáo hóa” của hai thái thú Tích Quang và Nhâm Diên, nhất là việc áp
dụng tục lệ cưới hỏi theo lễ nghi Trung Hoa, bị người Việt chống đối. Một tờ
trình của Tiết Tống vào năm 231, 5 năm sau khi Sĩ Nhiếp chết, gởi cho triều
đình Đông Ngô thời Tam quốc, cho rằng cho đến khi Tiết Tống đến Giao Chỉ dưới
thời Sĩ Nhiếp làm thái thú, tức là sau mấy trăm năm đô hộ, ảnh hưởng văn hóa
Trung Hoa không đúng theo như các báo cáo trước đó; người Giao Chỉ và Cửu Chân
vẫn còn giữ tục lệ gia đình của họ.
Như thế, chuyện Nhâm Diên dạy cho dân Việt dùng điền khí để cày cấy, hay
chuyện Nhâm Diên và Tích Quang giáo hóa dân Việt, đều chỉ là những huyền thoại
làm đẹp cho chế độ đô hộ. Trong khi đó người Trung Hoa học cách cày cấy lúa
nước của người Việt và du nhập lúa nước vào Trung Quốc, làm phong phú sinh
hoạt kinh tế Trung Hoa.
Tuy người Việt đã đánh đuổi được quân Trung Hoa ra khỏi nước để giành lấy độc
lập tự chủ, nhưng sau hơn một ngàn năm đô hộ nước Việt, người Trung Hoa vẫn
mang một số định kiến lạ lùng đối với người Việt.
Thứ nhất, cho đến thế kỷ 20, mà một nhà cách mạng dân chủ như bác sĩ Tôn Văn
(1866-1925), đã nói với Khuyển Dưỡng Nghị (chính khách Nhật Bản): “Người Việt
Nam vốn nô lệ căn tính. Ngày xưa họ bị chúng tôi đô hộ, ngày nay họ bị Pháp đô
hộ. Dân tộc ấy không có tương lai.” Thật là một câu nói ngạo mạn!
Năm 1939, trong một tài liệu của đảng Cộng Sản Trung Hoa, tựa đề là “Cách mạng
Trung Quốc và đảng Cộng Sản Trung Quốc”, lãnh tụ đảng CSTH là Mao Trạch Đông
đã xác quyết: “Các nước đế quốc, sau khi đánh bại Trung Quốc, đã chiếm các
nước phụ thuộc của Trung Quốc: Nhật chiếm Triều Tiên, Đài Loan, Lưu Cầu, quần
đảo Bành Hồ, và Lữ Thuận, Anh chiếm Miến Điện, Bu-tan, Hương Cảng, Pháp chiếm
An-Nam.
Từ đó có thể thấy được dã tâm của người Hán đối với tộc Việt không bao giờ
hết….
Chú thich: Chương này có lấy một số thong tin của bài viết tác giả Trần Gia
Phụng. Alfred Schreiner, sđd.. tt. 371-372. Abrégé de l’histoire d’Annam, Sài
Gòn: 1906, tr. 353.