Người đăng: Berren
Đầu tháng ba, lúa ngoài đồng đã chín, khắp các nơi trên đất Đại Việt, nông dân
bắt tay vào thu hoạch. Năm nay trời thương, không mưa không hạn, lúa được mùa
lắm, bông nào bông lấy nặng trĩu hạt……
Cùng lúc ấy, trên vịnh Tân đảo (Manila ở hiện tại) xuất hiện một đội thuyền
lớn, xuôi ngọn gió tiến vào đất liền. Đây chính là đội thuyền Thuận Hoá xuất
phát 7 ngày trước. Khoảng cách giữa Thuận Hoá và Tân đảo không quá xa, chỉ gần
2000km, bình thường đi 9 10 ngày là tới, thuận gió thì sớm hơn.
Sau 7 ngày lênh đênh trên biển, cuối cùng đội thuyền cũng đến được Tân đảo,
dọc đường đi không gặp cơn bão nào, vạn hạnh, nước nôi lương thực còn rất sung
túc. Binh lính mấy ngày đầu còn khó chịu bứt rứt do phải hoạt động trong không
gian nhỏ hẹp nhưng rồi cũng quen, không có sóng gió gì, cũng may thuyền nhà
Minh đủ lớn, chỗ ngủ nghỉ thoáng đãng, không phải chen chúc, thi thoảng có thể
ra ngoài thư giãn tay chân, nếu không không biết làm gì để vượt qua bảy ngày
nhàm chán này.
Không hề giống như trong phim cướp biển vùng Caribe, suốt ngày gặp chuyện này
chuyện lọ để khám phá tìm hiểu, viễn dương thời này rất nhàm chán, đa phần đều
hết ngồi thì nằm, để cho gió cuốn đi, không mấy việc phải làm. Nếu ở hiện đại
còn có thiết bị công nghệ, game, sách truyện giải trí cho bớt nhàm nhưng ở
thời này lấy đâu ra, giải trí duy nhất là nói chuyện phiếm, mà nói mãi cũng
chán, tốn nước bọt, tốn tài nguyên nước. Bởi vậy, viễn dương đi xa không khác
cực hình là mấy, tàu bè đi biển hay cập bờ, một phần là để bổ sung nước, lương
thực, một phần cũng là để thủy thủ xuống thuyền nghỉ ngơi giải trí, chứ không
ở lâu trên thuyền sẽ điên mất. May mà đi thuyền từ Thuận Hóa qua đây chỉ mất 7
ngày, chưa cần cập bờ để nghỉ ngơi lấy nước, dẫu vậy, binh sĩ cũng đã nhàm
chán hết sức rồi, cả người như bị rỉ sét.
Đứng ở đầu thuyền, ngắm nhìn lục địa đang dần hiện ra trước mắt, Vũ Tiến quay
sang tên lính hầu bên cạnh.
“ Thông tri các thuyền, lệnh cho đầu bếp nổi lửa nấu cơm, cho anh em binh sĩ
làm bữa cơm nóng, rau dưa các thứ nấu nhiều một chút, không cần tiết kiệm
nữa.”
“Rõ.”
Lính hầu quay người đi thông báo.
“Tùuuuu…..tùuuuuuu….tùuuuuu…”
Ba tiếng tù và dài vang lên, các chiến thuyền dừng lại không tiến thêm, bắt
đầu bắc bếp nấu cơm. Chẳng mấy chốc từng cột khói trắng bốc lên, mùi thơm lan
tỏa ra bốn phía…
Việc nấu ăn khi đi biển rất khó, không như thời hiện đại, có các loại bếp ga
bếp điện hay bếp dầu, nhỏ nhẹ tiện lợi dễ mang theo, ít tốn diện tích, thuyền
viên có thể có cơm nóng ăn mỗi ngày, càng không phải nói càng tàu cỡ lớn như
tàu chở dầu hay tàu sân bay, sinh hoạt trên đó không khác gì trên đất
liền….Nhưng thời này thì khác, nấu cơm là phải dùng củi, mà thuyền đi biển cần
chở bao nhiêu thứ, hàng hoá chưa còn không hết lấy đâu ra diện tích mà chứa
củi nấu cơm, phí công, phí tiền không đáng, không ai làm vậy...vậy nên được
bữa cơm nóng trên thuyền quá khó, đa phần người ta đều ăn mấy món khô hay ướp
muối, rất ngán và khát. Lại càng không cần nói đến rau dưa, tủ lạnh không có,
đi ngắn ngày còn chứa được chứ đi dài ngày thì chịu, rau dưa hỏng hết, không
tài nào chứa nổi. Bữa cơm canh nóng trên thuyền là quá quý, nhất là đĩa rau
xanh, bao sơn hào hải vị cũng không bằng.
Trong khoang thuyền, binh lính tốp năm tốp ba ngồi túm tụm chém gió, không khí
tràn ngập mùi hôi thối, phải thôi, nước trên thuyền quý như vậy, lấy đâu ra mà
tắm, cả tuần lễ không tắm thơm sao nổi. Nhưng đúng lúc này
“Hít... hít...thơm thế nhỉ, chúng mày ngửi thấy không.” Tên Cún quay sang hỏi
bạn.
“Thơm á, mày thích mùi chân thằng Toàn à Cún.” Bạn hắn mặt kinh ngạc, quay
sang hỏi lại.
“Mịa, thằng này tởm thật.”
“Sở thích bệnh hoạn vãi.” chúng bạn thì nhau cười nhạo tên Cún.
“Bọn điên, chó nhà tao cũng không thích nổi mùi chân chúng mày. Ngửi đi...có
mùi thơm quá….híttt...hàaa…” Cún cãi lại.
“Hít….hà…”
“Híttt...hà... quái, tao có ngửi thấy mùi gì thơm đâu.”
“Híttt ...khặc khặc, mẹ, thối quá, tí sặc chết. Thằng Cún bệnh vãi.” một tên
khác hít thật sâu, bị mùi mồ hôi chân thối trong khoang thuyền hun suýt chết.
“Cộp...cộpp…”
Một tên cởi trần trùng trục từ trên boong thuyền chạy xuống.
“Chúng mày...chúng mày….nhà bếp nấu cơm…”
“Hôm nào chúng nó chả nấu cơm, lạ gì đâu mà kêu.”
“Không không, lần này chúng nó nấu cả canh các thứ, thơm kinh hồn.”
“Thật…”
“Thật á!!”
“Thật luôn!”
“Để tao chạy đi xem.” Cả bọn nháo nhác loạn lên, cả tuần rồi chúng chưa động
đến bát canh nóng hay đĩa rau xanh, thèm chết rồi. Mấy thằng lao ngay xuống
bếp đi xem. Vừa chạy khỏi khoang, còn chưa kịp làm gì đã bị đội trưởng chặn
lại.
“Chạy đi đâu mà chạy, mẹ, chưa thấy nấu cơm bao giờ à.” Tên đội trưởng đá vào
mông tên Cún chạy đầu.
“Tiến tướng quân nói, hôm nay có cơm nóng canh nóng cho anh em ăn thoải mái,
mai đánh trận. Giờ xuống biển tắm rửa cho sạch sẽ, thối chết tao rồi.” Tên đội
trưởng ghét bỏ nói, mặc dù y cũng không thơm hơn ai.
“Đi, nhanh, khởi động chân tay trước rồi hẵng xuống, chuột rút chết không ai
cứu đâu. Đi bơi tí cho giãn cơ, mai đánh cho xung.”
“RÕ!!!”
“HÚ HÚ, bơi anh em ơi, tí lên có cơm ngon canh ngọt ăn.”
“Quá đãaaaaa!!!!”
“Ùm...ùmmm….”
Binh lính nhóm năm nhóm ba nhảy xuống biển, bọt trắng cả vùng.
“Từ từ thôi, cá mập cắn chết chúng mày giờ.”
Mấy tay đứng gác trên thuyền trêu ghẹo. Biển Đông có cá mập thật đấy nhưng có
cá mập trắng ăn thịt người không thì không biết. Cá mập cũng không tự nhiên vô
duyên vô cớ tấn công người để ăn thịt làm gì, biển thiếu gì cá mà đi ăn người.
Chưa kể mấy tên này thối chết, nhìn đã không có khổng vị gì rồi. Ai thèm ăn!!!
Lại nói về Tân đảo, cụ thể hơn là Cứ đảo (đảo Luzon) ở đây dân cư đông đúc
nhưng sinh hoạt vẫn còn ở giai đoạn nguyên thủy, bộ lạc. Vùng vịnh Tân đảo
(Manila) có trình độ văn minh cao hơn chút, ban đầu sinh sống ở đây là thổ dân
Philippines, sau đó người Mã Lai- Đa đảo đến và đồng hoá họ, suốt hàng ngàn
năm sinh sống thì họ đã thành lập lên vương quốc của mình, vương quốc Maynila.
Theo sử sách ghi lại, khi thái giám Trịnh Hòa nhà Minh vượt biển đến cũng đã
tiếp xúc với vương quốc này, hoàng đế nhà Minh coi quốc vương của vương quốc
này là vương, ngang với Đại Việt bấy giờ. Nói đi thì phải nói lại, đối với nhà
Minh, Đại Việt xưng thần nhưng đối nội và đối với các nước xung quanh thì xưng
hoàng đế, ngang hàng với “Thiên triều”, các triều đại phương Bắc biết, gửi thư
của trách các thứ nhưng không làm gì được. Khác với Hàn Quốc (Triều Tiên),
“thiên triều” ban cho chức vương thì chỉ dám xưng vương, không dám xưng đế,
hoàng đế “thiên triều” cũng chính là hoàng đế của họ, hàng năm chịu khó cống
nạp nhiều vàng bạc mỹ nữ….Nhìn chung thì từ khi triều đại Cao Câu Ly
(Goguryeo) do Ju mông lập ra bị tiêu diệt, các bạn bên Hàn phế đi hẳn, làm đệ
ruột của Tàu và suốt ngày bị Nhật Bản bắt nạt.
Vương quốc Maynila trở lên hưng thịnh hơn nhờ quan hệ buôn bán với nhà Minh
nhưng đấy là việc của sau này, khi Trịnh Hòa vượt biển rồi tiếp xúc các thứ,
chứ hiện tại Trịnh Hòa còn không biết đã sinh ra chưa. Ở thời điểm hiện tại,
vương quốc Maynila là một điểm định cư kiên cố, có tường vây và phố buôn bán
dọc theo sông Pasig. Theo tình báo thu được thì chưa đến 1000 quân, trang bị
thô sơ bằng số vũ khí chất lượng kém đổi được từ tay thương buôn Mãi Lai, Chà
Và.
………
Tắm rửa thơm tho xong, binh lính được thưởng thức cơm ngon canh ngọt như mong
muốn. Bữa cơm tuy không được như ngày còn ở Thuận Hoá nhưng xung túc hơn hẳn
ngày thường, mỗi người được một bát cơm to (bát loa) dăm ba miếng thịt kho
mặn, một bát canh rau, ít cà pháo ngâm cùng 2 3 củ khoai nước luộc, ai nấy ăn
uống thả cửa, no kễnh bụng. Ngày trước khi họ còn là nạn dân, cơm chẳng đủ no,
toàn ăn rau dại hay củ gì đào được, người nào làm lính còn được bữa cơm hẩm
cơm hiu nhưng mà ăn cháo rau là nhiều, người nào làm thợ săn còn hay có miếng
thịt chứ còn lại, Tết nhất may ra mới có. Mỗi ngày cơm trắng, nước trong, lại
có thịt ăn thì dù là địa chủ cũng không có. Ấy vậy mà từ khi theo tướng quân,
họ đã phải đói ngày nào, ăn uống no đủ, bạc lĩnh đầy tay…..Dân dĩ thực vi
thiên, mà thời loạn đầu quân cũng chỉ vì miếng ăn…..binh lính là những người
đơn giản, tốt với họ họ mang ơn, trả ơn nên đừng thắc mắc về độ trung thành
của họ với Đại Hải!!!
“Anh em sửa sang lại vũ khí áo giáp cẩn thận, mai ta đổ bộ rồi. Đừng để sai
sót gì xảy ra. Phụ lòng tướng quân!” các đội trưởng đi dọc khoang nhắc nhở
binh lính
“Rõ!”
Lục đục, leng keng, bộ giáp sắt, thanh đao sắc, chiếc khiên mây lục tục được
lấy ra từ dưới gầm, binh lính ra sức đánh mài, lau chùi vũ khí. Cung thủ căng
lại dây cung sao cho chặt, sửa, vuốt lại đuôi tên, mài nhọn hơn mũi tên. Bảy
ngày qua ngày nào họ không mài dũa đánh bóng vũ khí nhưng cẩn thận không bao
giờ thừa, trên chiến trường, nhiều khi đồng bạn còn không đáng tin bằng vũ khí
trong tay, đao còn người còn, đao mất người chết, vũ khí rời tay thì sống cũng
không lâu được.
Trên boong tàu, pháo thủ ra sức thông nòng pháo, lau chùi từng đường vân khe
kẽ. Trâu đầu ghé tai di chuyển súng thần công vào vị trí thích hợp nhất để
khai hoả. Súng thần công lúc này còn rất to nặng, phải đợi sau này Hồ Nguyên
Trừng cải tiến mới thon gọn hơn được, giờ di chuyển súng rất là mất sức.
Khoang dưới cùng, nơi các tay chèo nô lệ ở, các nô lệ đang ăn đồ ăn được phân
phát. Dĩ nhiên không thể phong phú như lính chiến được nhưng cũng không quá
kém, đều được phát cơm trắng, phát khoai cùng ít thịt. Một tên cao to thô
kệch, râu ria xồm xoàm, vừa và cơm vừa hỏi tên thanh niên bên cạnh.
“Isuke, mày nói tụi mình có được thả tự do thật không? Như lời bọn người Việt
này nói?”
“Tao không biết, có thể có mà cũng có thể không. Ai biết được, có trời mới
biết.” Tên người Đông Doanh này vừa ăn củ khoai nước vừa nói, loại củ này thật
ạ, ở đất nước hắn không có, khi đi cướp ở Trung Nguyên cũng không gặp. Hơi
nhớt nhưng ăn được, khá ngon.
“Cũng phải, lúc bị bọn người Hán bắt tao đã biết mình không có kết cục tốt đẹp
gì rồi. Không bị bọn nó bêu đầu là may.” Tên to con nói.
“Agiat, không cần nghĩ nhiều quá, có tự do mày cũng không về nổi thảo nguyên
đâu, nơi này cách chỗ mày cả vạn dặm. Ăn cơm đi, ít nhất cơm nước càng ngày
càng tốt.” Tên người Nhật nói.
“Ừm, lâu lắm mới được ăn miếng thịt có muối, mẹ, lúc còn chèo thuyền cho bọn
Tàu, cả ngày ăn thứ cháo mạch loãng của chúng nó, nhạt thếch, đói da dính cả
vào lưng, nhiều khi thèm muối quá phải húp nước biển. Ít ra bọn người Việt này
còn cho ăn no, chèo thuyền còn có sức.”
“Bọn nó cũng không đánh người vô cớ! Thôi ăn uống đi rồi ngủ, đến đâu hay tới
đó.”
Hai tên lại cúi đầu vào ăn, hai tay nô lệ chèo thuyền này không giống lũ còn
lại, chúng không phải nạn dân tự bán thân mà là bị tóm. Một tên là Oa khấu,
một tên là tướng cướp Mông Cổ, đều quen chém giết, đều muốn tự do và không
chết đói. Nhưng số phận sau này của chúng sẽ ra sao? Không ai biết. Tất cả còn
xem ở biểu hiện của chúng cùng lòng tốt của Đại Hải.
…….
Một đêm vô mộng cứ thế qua điiii…...