Người đăng: Berren
Trong đại sảnh, Đại Hải ngồi đó lẳng lặng thưởng thức chén trà xanh. Nói cũng
lạ, trước kia Đại Hải hắn có ham mê gì trà cho cam, thức uống yêu thích của
hắn là Coca-cola, Pepsi các thứ có ga, uống vào ợ một hơi sảng khoái, nhưng từ
lúc đến đây lại thưởng trà, thứ nước có hương thơm thanh mát mà lại mang vị
đắng, uống sau lại có vị ngọt ở đầu môi….Đùa thôi, thực ra ở thời đại này làm
gì có nước có ga thoả mãn hắn, cao cấp là rượu, rượu hắn chẳng ham, thứ đến là
trà, rồi các loại nước vối, haizzz, không có gì thì đành phải uống, rồi cũng
làm màu thưởng thức các thứ cho oai, chứ hạng võ biền như hắn làm gì có nhiều
tế bào nghệ thuật đến vậy…..Uống trà tốt cho sức khoẻ, tĩnh tâm, lúc đầu mới
uống chưa quen cảm thấy khó uống, chứ sau uống nhiều quen dần thấy cũng được,
một thữ uống lành mạnh. Hừ hừ, bọn Tây Dương hay du mục giờ này còn đánh nhau
bể đầu để tranh nhau mua bánh trà ẩm mốc của người Tàu kia kìa…..Cũng không
phải trà bánh của người Tàu không tốt, trà của họ rất tốt là đằng khác, nhiều
loại nổi tiếng như Long Tỉnh hay Ô Long….nhưng thứ họ bán cho người du mục
phương bắc lại là thứ phế phẩm nhất, đã thế còn giá cao!!!!
Đúng lúc này, từ ngoài, Vũ Tiến, Phạm Văn Võ, Đinh Phú tiến vào.
“Về rồi đấy hả, thuận buồm xuôi gió hết chứ.” Đại Hải đứng lên nắm chặt tay
từng người.
Thời này người ta không hay sử dụng cử chỉ thân mật giữa đàn ông với nhau, có
lẽ do ảnh hưởng của Nho giáo...Đại Hải cũng không thích kiểu ôm, hôn má như
phương Tây nhưng bắt tay là bình thường,cho nên hắn du nhập vào luôn, thể hiện
sự thân thiết tôn trọng của hắn đối với thủ hạ. Không biết tự bao giờ, thói
quen này đang dần dần lan tràn ra khắp vùng Thuận Hoá.
“Mọi chuyện vẫn bình thường thưa chủ công.” Phạm Văn Võ đáp lời.
“Thế còn Phú béo, chuyện ta giao ổn thoả cả chứ.”
“Vâng, tất cả đều hoàn thành.”
“Được rồi, ngồi xuống nghỉ ngơi trước, uống bát chè xanh rồi từ từ kể rõ cho
ta.”
“Tạ ơn tướng quân.” 3 người đáp tạ rồi ngồi xuống phản. Vũ Tiến còn đỡ, hắn
không ra biển nên chẳng thiếu thốn gì, Phú béo cùng Phạm Võ làm liền hai bát
lớn mà vẫn còn thòm thèm. Cũng phải thôi, ra biển, nước ngọt còn khó gặp chứ
nói gì trà, lênh đênh trên biển mười mấy ngày, họ có được hớp trà nào đâu, đã
thế suốt ngày còn ăn mấy thứ đồ khô hay muối, người đã sớm bứt rứt khó chịu,
thèm một bữa rau xanh. Nghỉ đủ rồi, lúc này Phú béo mới mở lời.
“Chuyến này ra biển coi như thuận lợi, vừa đến Quỳnh Châu, bọn thương lái Tàu
đã cướp mua hết hàng, mấy thứ da lông, ngà voi được giá cao lắm. Tổng cộng gần
6 vạn lượng bạc. Chúng còn hẹn lần sau có lại đến,càng nhiều càng tốt, không
lo tồn không được.”
“Cái này thì yên tâm, mấy tháng ngươi đi, thương hội Lạc Hồng tích được mấy
kho da lông, ngà voi rồi. Đất này cái gì cũng thiếu, mỗi sừng tê ngà voi là
không thiếu. Ngày nào người trên núi chả mang xuống bán, đổi gạo, đổi muối.”
“Dạ vâng, thế thì ta mau phát tài,bên Tàu khan hiếm thứ này lắm nhưng giá mà
ta chế tác được thành mấy món đồ tinh xảo thì giá phiên gấp bội.”
“Dễ nói, việc này để sau tính. Còn chuyện mua thuyền thì sao.”
Phú béo làm thêm hớp trà cho nhuộn họng mới nói.
“Lần này sang đúng lúc Thủy sư bên Tàu xả hàng, thuyền nhiều vô kể, chỉ lo
không có bạc mua. Khu Giang Nam Oa khấu hoành hành, Đại Minh mấy năm nay lại
có lệnh cấm hải, thành ra thuyền nhiều không có chỗ dùng, mấy tên đề đốc tuần
ra ngoài món lớn.
Thuyền thì nhiều đấy nhưng ta mà tự đi mua thì không mua được thuyền lớn,
thuyền tốt, bọn Thủy sư này tuy tham nhưng rất kị bán cho người Việt hay Đông
Doanh, có bán cũng chỉ bán cho người Hán. May mà lần này ta tuồn hàng chủ yếu
cho tên Vương Luân, trùm buôn lậu bên đất Quỳnh Châu, tên này quan hệ rộng,
chống lưng cứng nên ta mới dễ mua được thuyền, thế nhưng cũng mất 2 vạn lượng
lo lót. Thuộc hạ còn hứa với tên họ Vương có hàng tốt là gọi hắn đầu tiên, ấy
vậy mà vẫn bị hắn chặt 5000 lượng tiền công, chưa kể còn phải ưu đãi cho hắn
lúc bán da lông các thứ.”
Phú béo kể chuyện mua thuyền, không quên nhổ nước bọt tên Vương Luân tham lam.
“Không quan trọng, mới 2 vạn 5 mà có được mối mua thuyền đã là lãi lớn. Ngươi
chớ có quên, chúng là người Hán, ta là người Việt, đánh nhau từ thời Hùng
Vương tới giờ, hơn nghìn năm. Hắn giúp ta mua thuyền cũng ngang như phản quốc
rồi, chớ trách móc hắn tham lam. Tham là tốt, thế mới dễ khống chế.”
Không hổ là thương nhân, chỉ cần lợi ích đủ lớn thì việc gì cũng dám làm. Có
triết gia từng nói, chỉ cần đủ 300% lợi nhuận, tư sản có thể dẫn đạp lên mọi
luân thường đạo lí của xã hội. Còn tên Vương Luân kia lợi ích không biết bao
nhiêu phần trăm cho cam, không tốn một đồng được ngay 5000 lượng, à, hắn tốn
ít nước bọt đi giao dịch với mấy tên thủy sư đề đốc.
“Nói tiếp đi, lần này ngươi mua được thuyền gì.”
“Lần này mua tổng cộng được mười thuyền lớn, lâu thuyền hay phúc thuyền như
đại nhân nói, mua được 5 chiếc, mỗi chiếc chỉ có 5000 lượng, loại này rẻ nhất
vì dễ đóng, hàng tồn nhiều, đều là loại như thuyền của Thủy Quỷ, thương lái
rất ưa dùng vì không quá to, dài khoảng 20 trượng (hơn 30m), 3 cột buồm. Loại
toạ thuyền, dài gần 50 trượng, rộng khoảng 18 trượng, tận 6 cột buồm, loại này
phải 1,8 vạn lượng một chiếc, thuộc hạ mua được 2 chiếc. Thứ nữa là chiến
thuyền, dài hơn 30 trượng, 5 cột buồm, loại này được cái rắn chắc, chịu được
va đập mạnh, 1 vạn 5 mỗi chiếc, thuộc hạ mua được 2 chiếc. Còn cái cuối cùng,
kêu lương thuyền, chuyên chở lương thực, dài gần 60 trượng, 8 cột buồm, nhưng
loại này chỉ chở lương thôi chứ không đánh đấm gì được, toạ thuyền cũng vậy,
loại này 2 vạn một chiếc. Vị chi ra lần này tốn 13,6 vạn lượng. Thêm 2,4 vạn
lượng tiền mua lương cùng với phí đi lại, phát sinh thêm, tròn 16 vạn lượng.”
“Chẹp chẹp, một chuyến đi mà hết những 16 vạn lượng. Ngươi làm một trận hơi to
đấy Phú béo.”
Vũ Tiến lắc đầu than thở,mấy tháng trước kiếm gần 60 vạn lạng tưởng giàu, ấy
vậy mà đi biển một chiến giảm ngay 3 thành, kiếm nhiều, tiêu càng nhiều hơn.
“Đáng giá. Lương thuyền là to nhất bên Minh rồi hả.” Đại Hải cũng há hốc mồm
kinh ngạc trước độ lớn của thuyền bè của Đại Minh, những gần 100m, không đơn
giản chút nào.
“Còn loại kêu mã thuyền, chuyên trở la ngựa các thứ, loại này to hơn nhưng đám
đề đốc ở Quỳnh Châu, Phúc Kiến không có. Vương Luân cũng không đi hỏi, sợ sinh
nghi, lần này chúng ta mua một lần nhiều quá, đến hắn cũng hoảng.”
“Tốt rồi, mười thuyền mua được, cộng thêm hai thuyền cũ cũng đủ ta dùng mấy
năm, mấy năm sau ta tự đóng thuyền mà đi, khỏi đi mua, đỡ tốn bạc mà lại không
hợp ý.”
“Đại nhân nói phải, thuyền của Minh tuy to thì to thật đấy nhưng đi biển không
vững lắm, hôm nào biển yên còn ổn thoả chứ biển động cái là tròng trành, dễ
lật. May mà Đông Hải ít bão, chứ không không biết bọn thuộc hạ có về được
không.”
“Ha ha, là do ngươi phúc lớn mạng lớn đó, còn việc thăm dò các đảo ta nói thì
sao.” Đại Hải quay sang hỏi Phạm Văn Võ.
“Quỳnh Châu thì thuộc hạ không nói, vùng này tên Phú béo kia rõ nhất, hắn cũng
tiến hành mua bán một chút với các tộc người Lê, Miêu rồi. Quỳnh Châu khá
nhiều người Hán, lập cả phủ huyện. Còn về đảo Đài Loan, trên đó có một làng
chài nhỏ của người Hán gần biển, không đông đúc lắm, chưa đến 1000 người. Họ
nói họ là dân chạy nạn từ đại lục ra, chục năm rồi vẫn chưa quay lại, họ không
có thuyền lớn khó vượt biển, khi nào cần thiết lắm mới chèo thuyền đánh cá nhỏ
vào bờ để trao đổi mua bán nhưng mà nguy hiểm, sóng dữ là lật thuyền ngay, họ
mong thuyền chúng ta hay qua lại trao đổi mua bán với họ. Trên đảo còn có thổ
dân, rất nhiều, phải đến mấy vạn, thuộc hạ cũng không tìm hiểu kĩ, lấy săn bắn
hái lượm làm chủ, không thạo trồng trọt, thường mang da thịt xuống làng chài
ven biển đổi muối và cá. Nghe nói các tộc thổ dân thường hay chiến tranh lẫn
nhau để đoạt khu vực săn thú, nhìn chung là không đoàn kết.
Tiếp đến là Tân đảo, khu đó quá nhiều đảo nhỏ, bọn thuộc hạ chỉ xâm nhập cứ
đảo chủ công chỉ, trên đảo đất rộng nhưng người thưa, bên vịnh nước sâu có một
toà thành nhỏ của người Chà Và, quân khoảng 500 600 gì đó, trang bị đao kiếm
bằng sắt, ngoài ra không có giáp mũ gì, chủ yếu làm điểm tiếp tế cho thuyền
buôn lậu người Tàu, nơi xả hàng của cướp biển. Cũng như bên đảo Đài Loan, trên
Cứ đảo có nhiều thổ dân, nhưng lạc hậu hơn nhiều, họ vẫn dùng rìu đá, chưa
biết đúc đồng hay luyện sắt, cũng có vài món vũ khí sắt do đổi được hay cướp
được gì đó nhưng không đáng kể. Bọn thuộc hạ cũng tóm được một bộ lạc, khoảng
70 người, giết mất mấy tên tráng niên phản kháng còn đâu bắt lên thuyền trở về
đây hết, dạy tiếng Việt cho họ được một tháng rồi, chưa nói được rõ ràng, vẫn
còn bập bẹ.”
Phạm Văn Võ liên tục nói một hơi dài không ngừng nghỉ cho đến khi trình bày
hếtt về ba toà đảo Đại Hải yêu cầu thăm dò.
“Còn một vấn đề quên không hỏi các ngươi. Mười thuyền lớn làm sao đều vận trở
về được, thủy thủ các ngươi mang theo không nhiều như vậy.” Đại Hải nghi hoặc
hỏi.
“Ồ, chỉ 3000 lượng bạc là mua đủ số tay chèo cho 10 thuyền, mỗi thuyền lại
phân phát một số thủy thủ của ta để điều khiển buồm cùng bánh lái, còn có một
số binh lính canh phòng nữa thưa đại nhân, số tay chèo đều bị xích sắt khoá
lại, không thể làm phản được.” Phú béo ngay lập tức tiếp lời.
“Ừm, số người đây ngươi mua ở đâu, không ít đi.”
“2500 người, thuộc hạ mua luôn từ người Tàu, đa phần số đó là nạn dân tự bán
mình, số ít là Oa khấu cùng người Mông Cổ bị bắt. Tất cả thuyền buôn lậu của
Tàu đều dùng những tay chèo như vậy, rẻ, dễ bổ sung, không cần tiền công chỉ
cần no bụng.”
“Được rồi. Vũ Tiến, khi thuyền cập bến cho quân sĩ canh gác số tay chèo này
cẩn thận, không cần tháo xích, 2500 người không phải số lượng nhỏ, không quản
chặt rất dễ loạn. Cũng không cần bạc đãi họ, cơm cho ăn đủ no.”
“Rõ.”
Đại Hải quay sang nói với Vũ Tiến.
Một số người với tư tưởng yêu hoà bình, người người bình đẳng sẽ hỏi tại sao
không thả tự do cho họ, cho họ công ăn việc làm, hỗ trợ nhà cửa các thứ, đổi
lại là Đại Hải trước kia cũng sẽ thắc mắc như vậy nhưng giờ thì khác rồi. Xin
lỗi, đây là thời phong kiến, chế độ nô lệ còn chưa bị xoá bỏ đâu, buôn bán nô
lệ vẫn là một nghề kiếm bạc triệu, Đại Hải hắn chưa đủ mạnh để thách thức chế
độ, mà cũng không cần thách thức. Trong vấn đề này, người được lợi là hắn.
Đành rằng thả tự do cho nô lệ là tốt nhưng giờ chưa phải lúc, 2500 thanh
tráng, trắng tay hận đời, thả ra chỉ có đi cướp của giết người chứ không có
ích lợi gì cả, chỉ làm trị an thêm kém. Sau này có điều kiện thì thả tự do
cũng được, nhưng ít nhất phải phục vụ Đại Hải hắn 5 10 năm cái đã, đời không
có bữa cơm nào miễn phí cả, dù gì hắn cũng bỏ bạc ra mua họ về. Tính đến hiện
tại hắn còn nhân đạo chán, ít nhất chưa đánh đập và cho ăn cơm no, đã là quá
xa xỉ với nô lệ thời bấy giờ.
…….
“Được rồi, các ngươi ra nghỉ trước đi. Vũ Tiến, lát nữa đi kêu Lê Toàn cho thợ
ra duy tu thuyền,đảm bảo không có bất kì trục trặc hỏng hóc nào, sau vụ thu có
việc trọng dụng. Ngươi chọn ra 2000 binh sĩ thạo thủy tính, huấn luyện họ thủy
chiến.”
“Nhớ kĩ, không chỉ huấn luyện trên sông mà còn phải ra cả biển, đừng để lúc đi
đánh nhau lại say sóng.”
“Thuộc hạ tận lực”
Vũ Tiến trả lời, tinh thần phấn chấn. Luyện binh như vậy là sắp có chiến sự
rồi. Làm tướng còn mong gì ngoài chiến sự, không có chiến sự thì lấy đâu ra
quân công, không quân công làm sao mà thăng quan phát tài…..Dĩ nhiên đây chỉ
là ý kiến chủ quan của hắn, của những binh lính chính quy, lấy nghề lính làm
nghề kiếm cơm...chứ binh lính bình thường thì không, đang yên đang ổn chiến
tranh làm gì!!!!!