Người đăng: Berren
Trấn Thuận Hoá bắt đầu canh tác vụ xuân nhưng gặp muôn vàn khó khăn, ruộng đất
hoang hoá do chiến tranh, xung quanh thành ruộng đất canh tác được chỉ khoảng
nghìn mẫu. Nghìn mẫu ruộng tưởng là nhiều nhưng không, chừng ấy ruộng không
nuôi nổi mấy vạn người, đặc biệt trong thời đại này khi làm nông còn thô sơ,
sản lượng không cao được như thời hiện đại. Đã thế, nông cụ còn thiếu thốn,
trâu bò cũng ít, may mà Đại Hải lúc đi đã cố ý gom góp chút nông cụ cùng lưỡi
cày mang theo, trâu bò kéo xe cũng kha khá nên tạm đáp ứng được nhưng chỉ giải
quyết được trước mắt không được lâu dài. Dân chạy nạn cũng mang theo nông cụ
chạy đi khi giặc tới nhưng phần nhiều thất thoát trên đường, còn rất ít sót
lại, đồ sắt không nhiều lắm…..
Phải có cuốc sắt, cày sắt thì mới cày sâu cuốc bẫm được, xung quanh thành đất
rộng như vậy, bỏ đi thì phí. Đất đó trước đây cũng được canh tác, nay bỏ hoang
nên chỉ cỏ dại và cục đá hơi nhiều thôi, chứ không có cây cối gì mọc phía
trên, làm sạch cỏ đá, cày lên là có thể canh tác. Đồng bào dân tộc thiểu số
đốt nương xong dải hạt giống là có thể đợi thu hoạch, chớ nói chi đất đồng
bằng màu mỡ như này.
Trước Đại Hải cho người cày bừa tốt nghìn mẫu đất ruộng có sẵn. Sau cho đốt
lửa thiêu hết cỏ dại trên ruộng hoang, vừa đỡ phải làm cỏ, vừa làm thành phân
bón cho đất thêm màu, sau sai người nhặt nhạnh đá trên ruộng rồi cày bừa, được
chút nào hay chút đấy.
Kênh rạch cũng sai người đi nạo vét để dẫn nước vào ruộng. Hệ thống kênh rạch
vốn có sẵn nên không mất công nhiều, nếu sau này mở rộng diện tích mới cần đào
thêm, đào kênh thời phong kiến không có máy móc hỗ trợ, chỉ dùng sức người nên
rất mất công. Nếu muốn đào một con sông đào dài hay đắp đê, không biết phải
tốn bao nhiêu người, nhiều khi phải huy động sức mạnh của cả nước mới hoàn
thành nổi. Cho nên nhiều triều đại không phải không muốn tu sửa đê điều mà là
không có đủ sức.
Khối lượng công việc rất nhiều không thể ngày một ngày hai mà xong được nên cứ
từng bước mà làm. Đại Hải lại có đến cả vạn dân, không lo không làm xong được.
Trước trong buổi khó khăn này cứ coi họ là tá điền, làm việc tập thể đã chưa
phân ruộng vội, sớm phân cũng không công bằng, người có người không, không ai
phục ai.
Nhìn cảnh lao động ngất trời trước mắt, Đại Hải quay sang Lê Toàn đứng cạnh
“Còn thiếu nông cụ nhiều không Lê Toàn?”
“Thiếu nhiều lắm tướng quân, số ngài mang theo như muối bỏ bể.”
“Thiếu sắt, chung quy là thiếu sắt.”
“Mỏ sắt bên kia trước mang 300 người qua lấy, số sắt ta mang theo trước đúc
thành cuốc chim cùng xẻng như mẫu ta vẽ đưa ngươi. Cho họ qua đào gấp, lấy sắt
về làm nông cụ. Thiếu sắt không làm gì được.”
“Chỉ có người đi qua thì hơi nguy hiểm, tướng quân. Mỏ mãi trong rừng, chỉ cho
dân qua sợ thú dữ tập kích, lại sợ người dân tộc tấn công.”
“Ừm...cho 100 lính đi theo bảo vệ. Mà, cố làm thêm ít cưa với rìu, để họ thay
phiên nhau đốn củi, khai đường lên mỏ rộng thêm chút.”
“Rõ.”
“Ngươi đi an bài nhân thủ đi, rồi kêu Vũ Tiến cùng Phạm Văn Võ, Nguyễn Trí đến
chỗ ta.”
“Rõ. Thuộc hạ cáo lui”
“Đi đi.”
Quân doanh, binh lính chia từng tốp ra tập luyện, nhóm trường thương binh thì
ra sức đâm thương vào người nộm, đao thuẫn binh thì tập đối kháng bằng kiếm
gỗ, cung thủ tập bắn, khí thế ngất trời. Đại Hải gật gù hài lòng, trang bị tuy
không tính là tinh lương nhưng binh lính đều là lão binh tinh nhuệ, trải qua
nhiều tận chiến.
“Ta tính mang quân đi diệt mấy ổ phỉ tặc lớn ở xứ này. Vừa để trị an đảm bảo,
vừa xung công tài sản của chúng nếu có, đặc biệt là bắt chúng làm nô lệ khai
mỏ.”
“Tướng quân tính tấn công ổ phỉ nào?”
“Bắt giặc trước bắt vua, ta tính tấn công Hắc Phong trại, chúng đông nhất hung
hãn nhất.”
“Liệu có nguy hiểm quá không tướng quân, chúng đóng trại trên núi cao hiểm
trở, lại là hạng liều mạng, sợ quân ta tổn thất nặng mới phá được trại chúng.”
“Ta biết, nhưng bắt buộc phải tấn công ngay khi chúng chưa đề phòng, nếu không
chúng tăng mạnh phòng thủ hay liên hợp với các ổ khác thì càng khó khăn. Ngươi
biết đấy, chúng ta chỉ có 3000 lính.”
“Nguyễn Trí cùng Phạm Văn Võ lần này theo ta diệt phỉ, Vũ Tiến giữ 1000 quân ở
lại thủ thành.”
“Rõ!”
“Khi ta đi vắng, nếu có Chiêm quân hay thổ phỉ tấn công, ít hơn 1000 người thì
đánh lại, nhiều hơn thì lập tức rút vào thành, thủ thành. Đừng ham chiến,
chúng ta hiện tại không có nhiều binh lính, chết mất một người thiếu một
người.” Đại Hải quay sang dặn Vũ Tiến.
“Tấn công Hắc Phong trại ta muốn bí mật nhanh chóng, không làm kinh động thổ
phỉ, tốt nhất diệt được Hắc Phong trại nhân cơ hội diệt luôn mấy trại lớn,
đánh chúng trở tay không kịp.”
Hắc Phong trại, đóng ở một sơn cốc trong dãy núi Mã, địa thế hiểm trở, dễ thủ
khó công, sơn cốc chỉ có một cửa vào, xung quanh đều là núi cao hiểm trở, khắp
nơi là dây mây rừng chỉ có muông thú qua lại được, người không thể nào đi qua
hay trèo lên nổi. Cửa vào sơn cốc sơn tặc xây một cổng bằng đất đá to,chỉ để
lại cửa gỗ lớn ra vào, ngày đêm để người thủ vệ, xem chừng rất sâm nghiêm.
Trại lại gồm toàn bọn đầu trâu mặt ngựa vốn là lũ du côn tù phạm từ các nơi bị
đày ải hay trốn về đây, hết sức hung hãn thị huyết, hành vi bá đạo, tiếng ác
lan xa, trăm dặm xung quanh không ai không biết. Từ khi lập trại chưa bị quan
binh tấn công lần nào, ngược lại nhiều lần tấn công đoàn chở lương cửa quan
binh. Có người nói, bọn chúng có quan hệ bí mật nào đó với quan lại, hào môn
trong Trấn. Chúng hoành hành ở vùng này được gần chục năm, phỉ tặc đông đến
hơn nghìn người, là đầu sỏ của đám phỉ tặc mạn nam Hoành Sơn.
Lúc này, cả trại đang tiệc rượu linh đình, mùi thịt nướng, mùi rượu tản ra tứ
phía, đến cả ngoài cốc cũng ngửi thấy mùi thơm. Chuyện là hôm nay chúng làm
được một chuyến lớn, chặn được đoàn tàn Chiêm quân đi lạc, cướp được chục xe
vàng bạc châu báu, còn chưa kể lương thực, lợn bò. Chết mất gần trăm tên tặc
nhưng ai quan tâm, chúng chỉ tiếc nuối là không bắt được cô gái nào, lâu rồi
chúng chưa được hưởng mùi gái. Mấy ả thôn nữ mấy thôn quanh đây đều chạy nạn
hết, không còn một mống, chứ đừng nói đến mấy tiểu thư trong thành hay trong
thương đội đi ngang qua. Mấy tên đầu lĩnh vừa uống rượu, vừa ngồm ngoàm ăn
thịt, bàn tính xem hôm nào có nên họp mấy ổ phỉ khác, tấn công thành Thuận Hóa
kiếm ít đàn bà hay không.
Một dặm bên ngoài sơn cốc, đoàn quân Đại Hải đến đây, không ai hay biết. Đại
Hải còn phải 50 thân vệ dò a xung quanh xem có trạm gác ngầm không, trong phim
trại sơn tặc đều có vô số ổ gác ngầm xung quanh, sẵn sàng báo động khi quan
binh tiến đến….nhưng có vẻ hắn đánh giá quá cao lũ sơn tặc này rồi. Trên cửa
cốc cũng đang tiệc rượu linh đình, mấy tên phỉ gác ở đó cũng say biêng biêng
rồi, ai chú ý bên ngoài làm gì. Cũng không trách chúng được, ngày thường quan
binh thấy chúng đều đi đường vòng, ai dám tấn công lên đây, mấy trại khác thì
càng không, ngại sống chưa đủ lâu à. Thế nên, Hắc Phong trại nhìn thì tưởng
chừng sâm nghiêm nhưng thực ra thì lỏng lẻo, không gác, không trạm ngầm, kẻng
báo động còn tháo cả xuống làm giá nướng…..
“Nguyễn Trí, có dám lẻn vào ổ phỉ không?”
“Dám, tướng quân.” Nguyễn Trí không do dự trả lời, mặt không đổi sắc, không
coi việc lẻn vào ổ phỉ ra gì. Đây không phải lỗ mãng mà là tài cao gan lớn,
hắn dám lẻn vào thì cũng chắc chắn có thể chạy ra được.
“Tốt lắm, dẫn theo 50 thân binh của ta, mặc giáp da nhẹ lẻn vào. Giết hết bọn
lính gác mở cửa trại cho đại quân.”
“Rõ.”
Nguyễn Trí xách đao rời đi, 50 thân binh của Đại Hải lập tức theo sau, bộ giáp
sắt sáng loáng được bỏ lại, khoác lên mình bộ giáp da cũ kĩ, chỉ mang theo
cương đao cùng cung tên.
“Phạm Văn Võ, dẫn 300 tên lính khoẻ mạnh mắt tốt láu ở rừng quanh trại, đừng
để bọn phỉ nhìn thấy. Lát nữa người không cần xông vào mà phục xung quanh, tên
nào chạy ra lập tức bắt giết. Nhớ, đừng để tên nào chạy thoát.”
“Rõ.”
“Quân đâu, theo ta, để ngựa lại, đi nhẹ theo ta. Người sau nắm thắt lưng người
trước, nhằm hướng ánh lửa mà đi.”
Đại Hải dẫn 2000 binh lính mò mẫm trong bóng đêm áp sát trại phỉ. Thời phong
kiến, vật chất thiếu thốn, người dân ăn còn chưa đủ no lấy đâu ra thịt cá, cho
nên bệnh quáng gà rất nghiêm trọng, cứ trời tối là không nhìn thấy gì hết.
Việc đánh đêm là rất hiếm, đặc biệt là khi không có đèn đuốc gì, 2 quân chả
biết ai với ai, dễ xảy ra chuyện quân ta đánh quân mình.
Một góc khuất cửa trại, hôm nay trăng sáng nhưng ánh trăng không chiếu rọi đến
đây. Trong bóng đếm, mấy chục người nhẹ nhàng di chuyển, chỉ để lại tiếng xào
xạc rất nhỏ, nếu không để ý nghe thì sẽ không nghe thấy.
“Vù….keng”
“Cúc cuuuuu…..”
Tiếng móc câu ném lên tường thành ngay lập tức bị tiếng chim cu gáy lấn át.
“Mịa...nửa đêm nửa hôm còn kêu cái gì.”
“Hự...chắc mèo rừng mò vào tổ. Kệ nó đi bay, uống đi...hự….uống cho hết.”
“Ực...khàaaa….uống rồi, dài dòng quá...hự”
“Nấy nao nái nhân nà….hự..hự”
Mấy tên gác cổng không mảy may quan tâm tiếng động giữa đêm tối, chúng còn bận
nhậu nhẹt. Chúng không hề hay biết, lưỡi hái của tử thần đang tiến đến, sẵn
sàng cắt phăng cổ chúng.
“Hập…”
Nguyễn Trí nhảy lên tường thành nhẹ nhàng, không tiếng động. Như con báo đốm,
hắn lẩn ngay vào bóng tối của ụ gác. Không ai hay biết. Mắt cảnh giác nhìn mấy
tên đang ngồi uống rượu trong đình. Từng phút từng phút trôi qua, tất cả số
thân vệ theo hắn đều đã vượt qua tường thành, vào đúng vị trí của mình.
“Kẽo cẹt..kẽo kẹt….”
Hoà cùng tiếng gió, những cánh cung được kéo căng tròn, đầu mũi tên dưới ánh
trăng toả lên ánh hào quang lãnh lẹo.
Phiuuuu….Phập….
Hự...roeng….choang…
Mấy tên thổ phỉ đang ngồi uống rượu bỗng ôm cổ, miệng ú ớ không ra tiếng, máu
tươi cùng thức nhắm chưa kịp nuốt trào ra khỏi miệng. Tên xuyên qua cổ, đuổi
tên vẫn rung từng hồi bần bật. Chúng ngã lăn ra sàn, tay với với hòng rút hay
ngăn mũi tên lại nhưng không thành. Mắt từ từ tan giã, ý thức dần biến mất,
chìm vào đêm đen, cuộc đời tội lỗi của chúng được thẩm phán và chấm dứt ở
đây….ngay giữa tường thành...ngay trên bàn nhậu…
Gần 20 tên lính gác ở cửa trại, cả trên thành lẫn dưới cổng vô thanh vô thức
chết đi. Không ai hay biết. Mùi máu tươi tanh nồng toả ra tứ phía, nhưng rất
nhanh, bị mùi rượu, mùi thịt nướng hoà tan mất. Cả trại tặc, không ai hay
biết, tiệc rượu vẫn tiếp tục, heo nướng vàng ươm trên giá, rượu từng vò từng
vò tuôn ra như nước suối.
“Mở cửa thành, khẽ khàng thôi. Số còn lại đi phóng hoả đốt trại giặc, đốt xong
nhớ trốn đi, đừng để bị phát hiện. Đợi đại quân tiến vào.”
Nguyễn Trí phân phó thân vệ đi làm, còn hắn, đi lên trước cửa thành, nâng
cung, kéo căng hết cỡ, mũi tên bọc vải tẩm dầu thông cháy hừng hực, nổi bật
giữa đêm đen.
“Vùuuuuu….”
Tên bay thẳng lên trời, phá lệ rõ ràng dưới trời đêm. Xa xa bên ngoài, Đại Hải
đã thấy ám hiệu, gật đầu, làm được tốt lắm.
“Xông lên.”
Đại quân xuất động, chỉ cách cửa chưa đến 200m, chạy một chút là đến, từng
tốp, từng tốp binh lính, đao gươm sáng loáng lao đến trại phỉ. Mặt đất chấn
động, rầm rập từng hồi…..