Người đăng: Truong2986
Các loại cảnh giới
1 luyện thể
1luyện bì
luyện nhục
Luyện mạch
Luyện cốt
Luyện huyết
Luyện tạng
1 Cảm khí: cảm ngộ nội lực
Tích khí: tích tụ nội lực
Dưỡng khí : tự dưỡng khí lưu trong cơ thể
2 Vận khí : vận chuyển khí lưu trong cơ thể chạy trong kinh mạch
Điều khí: Điều khiển nội lực
Trùng khí: sử dụng nội lực trùng kích kinh mạch
3 hợp khí. : đem nguyên khí hợp lại 1 nơi.
Tụ khí: đem khí ngưng tụ lại.
Chuyển khí: có thể chuyển khí vào vũ khí
Luyện khí: sau khi hợp khí lại tinh luyện luyện mãi thành thép
Ngưng khí: là cảnh giới ngưng kết nội lực lại tăng thêm uy lực
Đan khí :sau khi luyện lại nếu muốn đến cảnh giới cao hơn thì phải hợp lại với
nhau thành đan
5 ngoại khí: tới cảnh giới này khí công có thể cách không phóng ra ngoài nhưng
yếu
Phóng khí: là cảnh giới cao thâm hơn khi đã có thể phóng khí ra cao thâm hơn
Hư khí: là cảnh giới cao nhất trong cảnh giới nội lực ngoại phóng có thể tụ
lại một chỗ mà không bay loạn xạ
6 áp khí: tụ tập khí công lại mà áp súc có thể tăng thêm uy lực
Nén khí: sau khi áp khi rồi lại tới cảnh giới nén sau khi nén lại tăng thêm 1
tầng uy lực
Bạo khí: tới cảnh giới này khi nội lực đánh ra sẽ sinh bạo tạc
7 Hình khí: tới cảnh giới này binh khí được tạo bằng nội lực đã có hình hài
đơn giản
Ngưng binh : tới cảnh giới này binh khí được tạo bằng nội lực đã ngưng tụ
thành binh khí có thể so ra với binh khí bình thường.
Cương khí: tới cảnh giới này cần phải cật lực áp suất binh khí lại để có thể
tăng cao uy lực hoặc độ cứng của binh khí được tạo bằng nội lực.
8 ngộ khí: nếu muốn vào cảnh giới này thì bắt buộc kẻ luyện nội công phải nhìn
ngắm các loài vật để tạo hình dành cho chiêu thức
Tạo khí: đây là cảnh giới cao hơn ngộ khí sau khi ngộ kẻ luyện nội công đã có
thể tạo hình đơn giản chiêu thức
Tượng khí: tới cảnh giới này tượng là vạn vật khí công có thể ngưng hình vạn
vật
9 Hoá khí : tới cảnh giới này khí công đã xuất thần nhập hoá có thể dung nhập
ý chí của kẻ tu luyện vào võ học.
10 Khí tông: khí tông tông sư đến cảnh giới này người tu luyện có thể đơn giản
ngự khí phi hành.
Đến cảnh giới này là 1 đạo khảm lúc này cần dùng kiên cường tinh thần câu
thông linh khí trong thiên địa khi hoàn thành có 9 lần thoát thai hoán cốt
cảnh giới này 1 chưởng bổ ra có thể câu thông thiên địa đánh ra võ kỹ có thể
sơ hiện thuộc tính
Truyền kỳ cửu biến
Khi tấn thăng truyền kỳ cần phải ở một khắc kia đan điền bên trong nguyên thần
linh khí đại quy nhất tập trung lại 1 điểm đột nhiên nổ tung toạc hủy toàn
thân kinh mạch tạo thành một mảnh hỗn độn nhưng là ở đây trong 1 sát na cần dữ
vững không chết lại dùng thủ đoạn đặc thù tái tạo lại kinh mạch và đan điền
tạo ra một thân thể mới
Huyết phách biến: cũng chính là đắp nặng kinh mạch đan điền huyết nhục
xương cốt
Linh hồn biến: cường hoá tinh thần tu luyện thần niệm đem tinh thần lĩnh
ngộ cực kỳ cường đại đem tinh thần dung nhập thiên địa lĩnh hội Pháp tắc
Hư không biến: cũng chính là đệ nhất biến tu luyện tới cực hạng linh hồn
và thân thể vô cùng cường đại có thể tìm hiểu hư không có thể tạo ra 1 không
gian nho nhỏ
Ngũ hành biến: đến cảnh giới này có thể hấp thu thiên địa nguyên tố
Âm dương biến : đến cảnh giới này có thể đem
Thiên địa âm dương 2 khí dung hợp lại với nhau lĩnh hội âm dương
Lĩnh vực biến: đến cảnh giới này cần đem
Âm dương ngũ hành hư không lực tụ lại với nhau hình thành lĩnh vực bên trong
lĩnh vực sức chiến đấu được nâng cao gấp 10 lần địch nhân bị suy yếu 9 thành
Quỷ thần biến : lĩnh ngộ ra được thiên cương địa sát khí mỗi khi chiến đấu
kích hoạt sẽ có lực lớn vô cùng
8 Tinh thần biến :Đến cảnh giới này thì cần dùng khí của bản thân trong vũ trụ
quần tinh lực có thể tạo ra tiểu vũ trụ
Bất tử biến: Đến cảnh giới này thì thân thể linh hồn âm dương thiên cương
địa sát quần tinh dung hợp lại có thể gãy chi trọng sinh ngay tức khắc
Hoàng giai
Huyền giai
Địa giai
Thiên giai
Nguyên đan
Tạo hoá
Kết thai
Thần anh
Hoá thần
Niết bàn
Linh huyền
Sinh huyền
Tử huyền
Chuyển luân
Luân hồi
Đại đạo Pháp tắc:
1 Sinh mệnh
Luân hồi
Nhân quả
Vận mệnh
Âm dương
Ngũ hành
Trí tuệ
Chân lý
Tử vong
Hủy diệt
Thời gian
Không gian
3 sợ phân
Ích Địa
Khai thiên
6 sơn hà
Linh hải
Kết thai
Thần anh
10 hoá thần
11 chuẩn tiên 1
12 chuẩn tiên 2
13 chuẩn tiên 3
14 nguyệt minh
16 thăng hoa
17 sáng thế
18 minh tiên
19 tinh thần
20 thiên hà
21 tuệ tinh
22 hắc động 1-9
23 hỗn độn
24 thánh nhân
các loại linh đan diệu dược :
Huyết linh đơn
Trường sinh đơn
Võ hồn đơn
Long tu đơn
Bát cốt đơn
Bồ đề đơn
luyện cốt đơn
Long thú cân
Bích linh đơn
Hỏa long đơn
Dịch cân đơn
Nguyên khí đơn
các loại võ công thêm vào:
Giáng long công pháp
Cầm long thức
Tiềm long thức
Du long thức
Phi long thức
Chân long thức
Bí kiếp long trảo
Cầm long thần thức
khí trầm đan điền
Kết thai :
Chuyển thế long
các loại long huyết cần thêm vào võ công:
Vũ long tinh
Giáng long tinh
Nhân long tinh
Địa long tinh
Thiên long tinh
Vân long tinh
Phi long tinh
Bạch long huyết
Kim long huyết
Mộc long huyết
Thủy long huyết
Hỏa long huyết
Thổ long huyết
trang bị thú :
Ma khuyên
Ma bào
Ma bội
Ma trảo
Ma giáp
Tả linh
Hửu linh
Niết bàn tịch
Phong lôi đơn
Hồn tứ linh
Tuyện này lv phân chia theo kiểu cũ là: luyện khí, trúc cơ, kim đan, nguyên
anh, hóa thần, phản hư(tạm thời nhiêu đây thôi), thế nhưng mà truyện độc đáo ở
chỗ mỗi cảnh giới điều có của nó đặc sắc như trúc cơ thời điểm có thể tích lũy
để kết siêu cấp đại đan(điển hình là Hỗn Nguyên Tông Thiên Khuynh Phong). Kim
đan thời điểm có kim đan dị tượng ngoài ra còn có kim đan ba vòng bảy
mạch(riêng HNT TKP thôi, còn lại ít ai tu cái này), nguyên anh thời điểm thì
nó có nguyên anh 99 trọng trong khi người khác tu thập trọng(HNT TKP là một lũ
biến thái), hóa thần thì có âm thần phân thân(mỗi âm thần phân thân thì sẽ
giúp tu sĩ thực lực gia tăng một lần, thằng Phạm Vô Kiếp mỗi âm thần phân thân
gia tăng 10 lần, nvc thì 30 lần do nó tu luyện bí thuật khác+nguyên anh 99
trọng), Phản hư kỳ thì không có gì đặc biệt ngoài sử dụng
các loại võ công cần học:
Tiểu vô tướng công
Tiểu Vô Tướng Công[sửa | sửa mã nguồn]
Tiểu Vô Tướng Công là môn võ công của phái Tiêu Dao trong truyện Thiên long
bát bộ. "Tiểu Vô Tướng Công" nghĩa là "công phu không có hình hài". Nếu luyện
môn công phu này, chỉ cần biết gia số chiêu thức thì có thể dựa nào nội công
của Tiểu Vô Tướng Công mà bắt chước tuyệt học của người khác. Tiểu Vô Tướng
Công mặc dù là Đạo giáo võ học nhưng có đặc điểm là dựa vào thuyết Vô Sắc Vô
Tướng của Phật giáo. Ở phương diện này biểu hiện rõ ràng nhất là Cưu Ma Trí
dựa vào Tiểu Vô Tướng Công bắt chước Thiếu Lâm 72 tuyệt kỹ Thiếu Lâm.
Tồi Tâm Chưởng[sửa | sửa mã nguồn]
Theo truyện Anh hùng xạ điêu, Tồi Tâm Chưởng là một trong nhiều môn võ công
được ghi lại trong Cửu Âm Chân Kinh. Nổi danh nhất với võ công này là Hắc
Phong Song Sát, Đồng Thi Trần Huyền Phong và Thiết Thi Mai Siêu Phong (2 trong
6 đệ tử ban đầu của Đông Tà Hoàng Dược Sư), đây là một môn chưởng pháp vô cùng
âm độc dùng để đả thương nội tạng của đối thủ. Đồng thời môn võ công này cũng
xuất hiện trong Tiếu ngạo giang hồ với tư cách là võ công của phái Thanh
Thành.
Tử Hà Thần Công[sửa | sửa mã nguồn]
Một môn võ học xuất hiện trong truyện Tiếu ngạo giang hồ, là bí kíp võ công
tuyệt mật không truyền cho đệ tử của phái Hoa Sơn. Tử hà thần công là bộ sách
luyện nội công và trị liệu thân thể, đồng thời giúp người luyện cải lão hoàn
đồng. Khi vận nội công Tử Hà, trên mặt người dùng sẽ xuất hiện khí màu tía.
Thiên tằm thần công
Là một môn thượng thừa võ công chuyên dùng để luyện nội công
Giáng long thập bát chưởng
Hàng long thập bát chưởng[sửa | sửa mã nguồn]
Hàng long thập bát chưởng (Eighteen Subduing Dragon Palms) là tên một loại
tuyệt kỹ võ công xuất hiện trong truyện kiếm hiệp của Kim Dung, được mô tả
trong loạt truyện kiếm hiệp gồm Thiên Long bát bộ và Xạ điêu tam bộ khúc (Anh
hùng xạ điêu, Thần điêu hiệp lữ và Ỷ thiên Đồ long ký). Hàng long thập bát
chưởng là một trong 2 tuyệt kĩ của Cái Bang bên cạnh "Đả cẩu bổng pháp".
Đả cẩu bổng pháp là bộ bổng pháp (côn, gậy) chỉ có bang chủ đời trước đích
thân truyền thụ cho bang chủ đời sau, còn Hàng long thập bát chưởng thì chỉ có
những đệ tử cái bang từ hàng 9 túi trở lên lập được đại công mới được truyền
dạy và mỗi người chỉ được dạy một vài chiêu chứ không được học hết cả pho
chưởng pháp, ngoại trừ các đồ đệ truyền nhân của bang chủ.
Theo truyện Anh hùng xạ điêu, Hàng long thập bát chưởng đã vang danh thiên hạ
từ lâu, song đến đời Hồng Thất Công, bang chủ thứ 18 của Cái Bang và đến đời
Quách Tĩnh (đồ đệ của Hồng Thất Công) thì mới được biết đến rộng rãi nhất.
Theo truyện Thiên long bát bộ, trước thời Hồng Thất Công có một nhân vật làm
cho Hàng long thập bát chưởng đi vào huyền thoại là Tiêu Phong, một nhân tài
kiệt xuất của Cái Bang. Với tấm lòng hào hiệp, cương trực chính nghĩa, Tiêu
Phong đã đưa Hàng long thập bát chưởng trở thành một môn chưởng pháp danh bất
hư truyền.
Nhưng theo truyện Hỏa Long Thần Cái, trước cả thời Tiêu Phong thì người làm
cho Hàng Long Thập Bát Chưởng vang danh thiên hạ là Hỏa Vinh, một đệ tử ngoại
lai của Cái Bang. Với ý chí mạnh mẽ không chịu khuất phục cường địch, cùng nội
lực phi thường Hỏa Vinh cùng với Hàng long thập bát chưởng đã quấy động cả 1
vùng núi Ma giáo.
Sau này đến truyện Ỷ thiên Đồ long ký thì có viết như sau: "Cái Bang thần công
Hàng Long Thập Bát Chưởng, trong thời Bắc Tống vốn là 28 chưởng, lúc ấy bang
chủ Tiêu Phong võ công cái thế, lại vì thân phận người Khất Đan nên bị trục
xuất khỏi bang, ông đơn giản hóa, đem 28 chưởng giảm mười chưởng, trở thành
Hàng Long Thập Bát Chưởng, do nghĩa đệ Hư Trúc Tử Linh Thứu Cung thay mặt
truyền lại, cứ thế nhiều thế hệ truyền lại. Đến những năm cuối triều đại Nam
Tống, tuy bang chủ kế vị bang Gia Luật Tề được nhạc phụ Quách Tĩnh truyền thụ
toàn bộ chưởng pháp, nhưng sau này bang chủ tiếp nhậm Cái Bang, do căn cơ
không tốt, nhiều nhất cũng chỉ học được đến 14 chưởng. Đến đời bang chủ Cái
Bang Sử Hỏa Long thì chỉ còn học được 12 chưởng". Sau khi Sử Hỏa Long chết,
cùng với sự suy vi của Cái Bang, bộ chưởng pháp này coi như bị thất truyền.
Theo Kim Dung, Hàng long thập bát chưởng là võ công chí cương của thiên hạ,
bao đời Bang chủ Cái Bang nhờ nó mà thành danh giang hồ, uy lực tùy theo người
sử dụng. Chiêu thức của bộ chưởng pháp này bao gồm:
Phi long tại thiên (飛龍在天 - Fēi long zài tién) hào Cửu ngũ của quẻ Kiền, có
nghĩa: "rồng bay lên trời". Khí dương đã phát huy rực rỡ, hoặc con người đã
khai mở được bản tâm để phát huy diệu dụng.
Kiến Long Tại Điền (見龍在田 - Jiàn long zài tiàn) lời hào Cửu nhị của quẻ Kiền,
có nghĩa là: "con rồng đã hiện ra trên mặt ruộng". Lúc này khí dương bắt đầu
được khai mở.
Hồng Tiệm Vu Lục (鴻漸於陸 - Hóng jiàn wū lù) lời hào Cửu tam quẻ Tiệm, có nghĩa
"con chim hồng dần bay đến đậu trên gò đất". Quẻ Tiện còn có tên là Phong sơn
tiệm, do được tạo thành bởi quẻ Cấn (là núi) ở dưới và quẻ Tốn (là gió) ở
trên. Ý nghĩa tượng trưng của Hồng tiệm vu lục là hào Cửu tam có vị trí trên
cùng của quẻ Cấn, là hào dương xử ở ngôi dương, cương kiện năng tiến, do đó
mới có tượng "con chim hồng dần bay lên đậu trên gò đất".
Tiềm Long Vật Dụng (潛龍勿用 - Qián long wù yòng) lời hào Sơ cửu của quẻ Kiền, có
nghĩa là: "như con rồng còn đang ẩn náu; không nên dùng". Khi khí dương còn
đang tiềm tàng, hoặc bản thể của tâm chưa được phát lột thì không nên hành
động.
Cang Long Hữu Hối (亢龍有悔 - Kàng long yǒu huǐ) lời hào Thượng cửu của quẻ Kiền,
có nghĩa: "Rồng bay quá cao ắt sẽ hối hận". Hào dương ở ngôi cao nhất của quẻ
thuần dương, như để tâm chìm đắm vào chỗ lưu đãng, hư huyền xa rời mất cõi
nhân sinh, ắt sẽ hối hận. Dùng Cang long hữu hối phải có phát có thu, lực đánh
ra 10 phần, lưu lại 20 phần.
Lợi Thiệp Đại Xuyên (利涉大川 - Lì shè dà chuān) có nghĩa: "có lợi trong việc lội
qua sông lớn", đây là lời thường dùng trong các quái từ, hào từ của Kinh Dịch.
"Đại xuyên" là sông lớn, thường được dùng để ví với sự gian nan hiểm trở.
Đột Như Kỳ Lai (突如其來 - Tū rú qí lái) lời hào Cửu tứ quẻ Ly, có nghĩa: "thình
lình ập tới". Trong hào Cửu tam thì sự đe dọa đã bắt đầu hiện ra dưới hình
thức ngọn cầu vồng lấn át ánh nắng chiều, và đến hào Cửu tứ thì đột ngột
chuyển thành hiện thực.
Chấn Kinh Bách Lý (震驚百里 - Zhèn jīng bǎi lǐ) lời quái từ và lời thoán truyện
của quẻ Chấn, có nghĩa: "tiếng sấm động vang xa hàng trăm dặm".
Hoặc Dược Vu Uyên (或躍於淵 - Huò yuè wū yuān) hào Cửu tứ của quẻ Kiền, có nghĩa:
"hoặc nhảy vào vực thẳm". Đây là bước rẽ quyết định, con người từ bỏ thế giới
rạch ròi của lý trí để đi vào thế giới huyền vi của tâm thức.
Song Long Thủ Thủy (雙龍取水 - Shuāng long qǔ shuǐ) Chúng tôi chưa tra cứu được
xuất xứ, có lẽ tác giả chỉ thuận tay dùng các thành ngữ quen thuộc trong kho
tàng văn học Trung Quốc mà đặt tên, theo kiểu các chiêu "Giao long hỷ thủy",
"Lưỡng long tranh châu"... thường gặp các tiểu thuyết võ hiệp chứ không phải
là câu được chọn ra từ Kinh Dịch.
Ngư Dược Vu Uyên (魚躍於淵 - Yú yuè wū yuān)
Thời Thừa Lục Long (時乘六龍 - Shí shèng liù long)
Mật Vân Bất Vũ (密雲不雨 - Mì yún bù yǔ) Thanh phong từ lai, bái nhiên hữu vũ.
Tổn Tắc Hữu Phu (損則有孚 - Sǔn zé yǒu fú)
Long Chiến Vu Dã (龍戰於野 - Long zhàn wū yě) lời hào Thượng lục của quẻ Khôn có
nghĩa: "rồng đánh nhau nơi hoang dã". Âm đã đến lúc cực thịnh nên tranh nhau
với Dương.
Lữ sương băng chí (履霜冰絰 - Lǚ shuāng bīng dié) Sơn vũ dục lai, lữ sương băng
chí, tên đầy đủ là "lữ sương, kiên băng chí", lời hào Sơ lục quẻ Khôn, có
nghĩa: "dẫm trên sương, thì biết băng dày sắp đang tới". Đây là tượng của khí
âm mới sinh.
Đê Dương Xúc Phiên (羝羊觸藩 - Dī yáng chù fān)
Thần Long Bãi Vĩ (神龍擺尾 - Shèn long bǎi wěi) Nguyên trong Kinh Dịch không có
câu này, mà chỉ có câu "Lý hổ vĩ, điệt nhân, hung" của hào Lục tam quẻ Lý, có
nghĩa "đi sau cọp, đạp đuôi cọp, bị nó quay lại cắn, nguy hiểm". Kim Dung giải
thích tên chiêu này được lấy từ câu trên, để tả khí thế mạnh mẽ và hung dữ của
chiêu thức. Người đời sau thấy chữ "hổ" không hợp trong môn chưởng pháp "hàng
long" nên đổi thành "Thần long bãi vĩ".
Lăng Ba Vi Bộ
Trong Thiên Long Bát Bộ, có anh chàng Đoàn Dự, thế tử nước Đại Lý, chỉ học
văn, không thèm học võ để nối nghiệp dòng họ Đoàn với môn Nhất Dương Chỉ lừng
danh thiên hạ. Rồi, vui bước giang hồ, Đoàn Dự lạc vào hang động, cấm địa của
Vô Lượng phái và vì mê nhan sắc của pho tượng ngọc chàng đã học được môn Lăng
Ba Vi Bộ lấy ý từ bài Lạc- Thần- Phú.
“Lăng ba nhón gót
Chẳng nhiễm bụi trần
Chuyển mình lấp loáng
Mặt tựa hoa Xuân,
Miệng cười chúm chím
Lặng lẽ xuất thần
Nhìn người yểu điệu
Quên ngủ quên ăn“
Đây là một bộ pháp tức là cách thức di chuyển thần kỳ chiếu theo 64 quẻ trong
Kinh Dịch. Có thể nói đây là môn phi hành hoàn toàn nằm trong thế thủ chẳng
hại đến ai mà lại tránh được kẻ hung ác võ công cao cường hơn mình, muốn giết
mình. Thật là một môn võ công rất lợi ích khi mình muốn tranh đấu trong ôn
hoà, môt môn võ chí nhu.
không phải ai cũng có thể luyện thành công môn tuyệt kỹ này, bởi phương pháp
quá khó, lại vô cùng rối rắm. Một người dù võ công cao siêu đến đâu, nếu chỉ
cậy vào nội lực, vào võ nghệ, thì sẽ không bao giờ luyện được “Lăng ba vi bộ”.
Lăng Ba Vi Bộ là một môn võ công để cho những người đã có bản lãnh vào hạng
thượng thừa rèn luyện
Càn Khôn Đại Na Di
Càn Khôn Đại Na Di là bộ võ công tâm pháp thất truyền của Minh giáo nơi Tây
Vực, giúp người sử dụng có thể điều khiển thuần thục nội lực trong cơ thể,
đồng thời giảm sát thương của các chiêu thức do kẻ địch gây ra hoặc ném trả
chiêu thức lại cho kẻ thù.
Tuyệt kỹ này bao gồm tất cả có 7 tầng, theo Kim Dung viết thì người có tư chất
cao thì sẽ mất 7 năm để luyện tầng 1, còn người có tư chất thấp thì phải lên
đến 14 năm. Ấy vậy mà giáo chủ Minh Giáo đời thứ 34 Trương Vô Kỵ trong một lần
tình cờ đang đuổi theo Hỗn Nguyên Phích Lịch Thủ Thành Côn đã tìm ra bí kíp võ
học này. Nhờ có cửu dương thần công thâm hậu nên đã tu luyên đến tầng thứ 6
chỉ trong 1 đêm. Sau này nhờ đoạt được Thánh hỏa lệnh nên chàng học được tầng
thứ 7 của Càn khôn đại na di tâm pháp uy trấn giang hồ.
Quỳ Hoa Bảo Điển
Nguồn gốc của Quỳ Hoa Bảo Điển được tiết lộ theo lời kể của Phương Chứng Đại
Sư, trụ trì Thiếu Lâm Tự khi bàn việc cùng Lệnh Hồ Xung và Xung Hư đạo trưởng
phái Võ Đang trên đỉnh núi Hằng Sơn. Đây chính là bí kíp võ thuật thượng thừa
do cặp vợ chồng tiền nhân “Phái Hoa Sơn” với tên người chồng có chữ “Quỳ”,
người vợ có chữ “Hoa” sáng tạo nên. Sau vì sáng tác bí lục này mà thành ra
xích mích, cuối cùng cả hai vợ chồng đã đi ở ẩn, xa lánh cõi trần và pho bí
lục võ công cũng chia làm hai bộ. Bộ của người chồng gọi là Càn kinh. Bộ của
người vợ kêu bằng Khôn kinh.Nguyên tắc luyện Quỳ Hoa Bảo Điển chính là “Dẫn
Đao Tự Cung”, đây là loại võ công mang tính dương, khi luyện hơi nóng sẽ bốc
lên ngồn ngột vì vậy cần phải cắt đi bộ phận sinh dục để tránh khỏi thần hồn
điên đảo.
Lục mạch thần kiếm
Lục Mạch Thần Kiếm[sửa | sửa mã nguồn]
Lục mạch thần kiếm danh xưng "Thiên hạ đệ nhất kiếm khí", là tên một loại
tuyệt kỹ võ công xuất hiện trong truyện kiếm hiệp của Kim Dung. Nó là tuyệt kỹ
sử dụng kiếm khí (vô hình) phóng ra từ đầu ngón tay để sát thương đối thủ.
Ngoại trừ người sáng tạo là vua khai quốc của Đại Lý Đoàn Tư Bình, nó được xem
là môn võ công tối thượng rất khó để luyện được (kể cả sáu cao tăng đắc đạo
Thiên Long tự) cho đến khi Đoàn Dự vô tình luyện thành công. Theo đó, đây là
một trong 2 tuyệt kỹ độc môn truyền nội không truyền ngoại của nước Đại Lý:
Nhất Dương Chỉ và Lục Mạch thần kiếm.
Nhất Dương Chỉ là bộ chỉ pháp được truyền dạy trong hoàng tộc Đại Lý, còn Lục
Mạch thần kiếm thì chỉ có những đệ tử xuất gia của Thiên Long tự mới được
truyền dạy (nhiều vị vua và hoàng tộc Đại Lý khi về già tu hành tại chùa này),
vì uy lực của nó quá lớn nên phải tu tập Phật pháp để trung hòa. Theo truyện
Thiên long bát bộ, nhân vật Đoàn Dự là người duy nhất có thể sử dụng trọn vẹn
cả sáu mạch kiếm khí nhờ vào ngộ tính cao cùng nội lực thâm hậu. Bộ thần kiếm
này được sánh ngang với Dịch Cân Kinh của Thiếu Lâm Tự nên nó thu hút các võ
lâm cao thủ chiếm đoạt và tiêu biểu nhất là Đại Luân Minh Vương Cưu Ma Trí.
Trong Thiên long bát bộ, Lục mạch thần kiếm được tu luyện dựa trên cách vận
hành khí tâm pháp yếu chỉ riêng rồi dùng Nhất Dương chỉ phát triển thành kiếm
khí. Sáu mạch của bộ kiếm pháp này bao gồm:
Thiếu trạch kiếm (ngón út tay trái)
Thiếu xung kiếm (ngón út tay phải)
Quan xung kiếm (ngón trỏ tay trái)
Trung xung kiếm (ngón cái tay phải)
Thương dương kiếm (ngón trỏ tay phải)
Thiếu thương kiếm (ngón cái tay trái)
Lục Mạch Thần Kiếm còn có thể dùng như một trận pháp gọi là Lục Mạch Kiếm
Trận, sáu người chia nhau học sáu mạch kiếm như sáu vị cao tăng của Thiên Long
Tự. Tuy nhiên Lục Mạch Kiếm Trận uy lực không cao bằng Lục Mạch Thần Kiếm.
Muốn luyện thành bộ võ công này có 2 cách:
Tu luyện Nhất Dương Chỉ đến mức độ có thể xuất chỉ khí phóng ra đầu ngón tay
thì được xem là nhập môn, có thể luyện được 1 mạch. Từ đó càng tu luyện lên
cao để có thể sử dụng toàn bộ. Cách này rất khó luyện, ngoại trừ Đoàn Tư Bình
thì chưa có ai theo cách này mà luyện thành Lục Mạch Thần Kiếm.
Tu luyện nội lực đến mức cực cao, ít nhất phải có 1 giáp công lực (60 năm)
trong thân. Theo đó có thể tùy ý luyện thành Lục Mạch Thần Kiếm mà không phải
tu luyện Nhất Dương Chỉ. Theo cách này chỉ cần có 1 pho nội công thượng thừa
thì có thể dễ dàng luyện thành Thần Kiếm. Vì nội công thượng thừa như Dịch Cân
Kinh, Bắc Minh Thần Công, Cửu Dương Thần Công,... thời gian luyện ngắn nhưng
có thể dễ dàng ngưng tụ nội lực như người khác tu luyện mấy thập niên.
Cửu dương chân kinh
Cửu âm chân kinh
Cửu âm chân kinh là tên gọi của một bộ sách võ công, xuất hiện trong bộ Xạ
điêu tam khúc của nhà văn Trung Quốc Kim Dung.
Cuốn sách là sản phẩm của 40 năm giác ngộ đạo lý võ học Đạo gia của Hoàng
Trường, một cao thủ võ công cũng là một viên quan của nhà Tống. Hoàng Trường
đã luyện võ công tới mức thượng đẳng với mục đích trả thù Minh Giáo nhưng mọi
việc đã nằm ở quá khứ. Chính vì thế, ông đã viết lại Cửu Âm Chân Kinh để lưu
truyền hậu thế.
Cửu âm chân kinh gồm 2 quyển: Quyển thượng bao gồm các bí kíp rèn luyện nội
công căn bản của Đạo gia, Quyển hạ gồm các chiêu thức khắc địch và bảo vệ thân
thể. Sau khi Hoàng Thường qua đời, Cửu âm chân kinh lưu lạc trong nhân gian
khiến giới võ lâm tranh đoạt và gây ra sự chém giết để giành lấy bí kíp này.
Bích Hải Triều Sinh Khúc:
Bích Hải Triều Sinh Khúc là bài tiêu khúc của Đông Tà Hoàng Dược Sư, có uy lực
và mê lực vô song, khi tấu bằng ngọc tiêu (cây sáo bằng ngọc) kèm với nội lực
thâm hậu, nó sẽ tấn công vào định lực của đối phương.Khúc tiêu này mô phỏng
biển cả mênh mông, vạn dặm phẳng lì, xa xa sóng biển từ từ tiến tới, càng gần
càng mau. Sau cùng thì cuồn cuộn dâng lên, sóng trắng như núi nối nhau, mà
trong làn sóng thì cá nhảy kình bơi. Trên mặt biển thì gió thổi âu bay, lại
thêm yêu ma quỷ mị, quái vật giỡn sóng, thoắt thì núi băng trôi tới, thoắt thì
biển nóng như sôi, biến ảo đủ vành, mà sau khi triều lui thì mặt nước phẳng
lặng như gương… khiến các cao thủ võ lâm ai cũng kinh hãi khi nghe đến.
Kết quả, nếu không đủ sức chống lại, đối thủ sẽ rơi vào trạng thái tâm trí bất
định, điên điên cuồng cuồng, dần dẫn đến mất kiểm soát bản thân, nếu càng cố
vận công càng dễ dẫn đến thần hồn điên đảo.
Tịch Tà Kiếm Pháp
Tịch Tà Kiếm Pháp là bí kíp kiếm thuật thượng thặng có cùng nguồn gốc với Quỳ
Hoa Bảo Điển, và là nguồn gốc của những tranh chấp trên giang hồ. Tương truyền
đây là một bộ võ công do một vị Thái giám trong Hoàng cung sáng tạo ra (chính
vì thế mà môn võ công này bắt buộc người luyện phải “Xuống Kiếm Tự Cung?”.
Giang hồ cho rằng khi luyện Tịch tà kiếm pháp họ sẽ thành kiếm thủ vô địch,
bất khả chiến bại.Trong Tiếu Ngạo Giang Hồ, Tịch Tà Kiếm Phổ chính là nguyên
nhân để bao nhiêu võ lâm cao thủ, bang hội, môn phái tranh giành chém giết lẫn
nhau, là nguyên nhân khiến cho gia đình Lâm Bình Chi tan cửa nát nhà, khiến
cho phái Hoa Sơn chia năm xẻ bảy, có thể nói tác phẩm này của tiên sinh Kim
Dung được xây dựng xung quanh quyển kiếm phổ này.
Tịch Tà kiếm gồm 72 đường, biến hoá kì ảo, thực chất dựa vào tốc độ phi
thường, công kích đối phương lúc chưa kịp đề phòng để thủ thắng, điều này ta
có thể thấy qua thân pháp kì ảo của Đông Phương Bất Bại, nhanh đến ko thể
tưởng tượng được, thật xứng đáng tám chữ “Nhật xuất đông phương, duy ngã bất
bại“, dùng cây kim thêu chống ba tay đại cao thủ đương thời mà vẫn ung dung
khí khái… Có lẽ tốc độ đó có được một phần nhờ vào bí quyết “dẫn đao tự cung ,
võ lâm xưng hùng” của môn võ này!
Độc Cô Cửu Kiếm
Tổng quát thức: Là các quy luật chung, các quy tắc biến hóa trong kiếm thuật:
di chuyển, quan sát, tấn công... Các biến hóa trong tổng quát thức dựa trên
các quy luật biến hóa của bát quái trong Kinh Dịch với 360 cách biến hóa.
Phá kiếm thức: Là các quy tắc phá giải tất cả các loại kiếm pháp.
Phá đao thức: Các quy tắc phá tất cả các loại đao pháp, từ đơn đao, song đao,
đại đao, liễu diệp đao, quỷ đầu đao, trảm mã đao...
Phá thương thức: Quy tắc tấn công các đối thủ sử dụng thương, kích, côn, bổng,
trượng, gậy...
Phá tiên thức: Hóa giải cương tiên, cương thích, trủy thủ, thiết bài, thiết
giản, điểm huyệt...
Phá sách thức: Phá trường sách, nhuyễn tiên, tam thiết côn, thiết liễn, lưu
tinh trùy...
Phá chưởng thức: Hóa giải các loại võ công sử dụng trực tiếp chân, tay, công
lực. Bao gồm các loại quyền, cước, đoản đả, cầm nã, trảo thủ, chỉ pháp, chưởng
pháp... "Ðối phương dám để tay không địch với trường kiếm thì dĩ nhiên võ công
họ đã cao thâm ghê gớm. Ðại phàm những tay cao thủ võ học, võ công đến mực
thượng thặng thì trong tay có binh khí hay không cũng chẳng xa nhau là mấy."
Phá tiễn thức: Dùng để phá các loại mũi tên, ám khí... "Muốn luyện thức này
thì trước hết phải học nghe tiếng gió để phân biệt là ám khí gì ở phương nào
bắn tới. Chẳng những chỉ dùng trường kiếm để gạt mọi thứ ám khí của địch nhân
bắn tới mà còn mượn sức của đối phương để phản kích lại, tức là dùng món ám
khí của địch nhân bắn tới để bắn ngược lại địch nhân." Một minh họa điển hình
của chiêu thức này là Lệnh Hồ Xung dù mất hết nội lực vẫn sử dụng một chiêu
kiếm xuất thần đâm mù mắt 15 đại cao thủ vây quanh.
Phá khí thức: Dùng để hóa giải các đối thủ có nội công đã đến mức thượng thừa.
Theo Phong Thanh Dương thì thức này rất trừu tượng và khó luyện, Lệnh Hồ Xung
chưa sử dụng lần nào trong suốt bộ tiểu thuyết. Lúc dạy cho Lệnh Hồ Xung thì
Phong Thanh Dương chỉ truyền thụ khẩu quyết, ông cũng nói rằng Lệnh Hồ Xung
cần phải rèn luyện thức này thêm 20 năm nữa mới có thể sử dụng và tranh hùng
với cao thủ trong thiên hạ.
Nhân vật Độc cô Cầu bại xuất hiện qua lời kể của Phong Thanh Dương trong tiểu
thuyết Tiếu ngạo giang hồ và trong tiểu thuyết Thần điêu hiệp lữ khi con thần
điêu (người bạn còn sống sót của Độc cô Cầu bại) đưa Dương Quá đến mộ Độc cô
cầu bại và qua đó học được triết lý kiếm thuật của Độc cô.
Bắc Minh Thần Công
Bắc Minh Thần Công là một loại thượng thừa nội công tâm pháp trong truyện
Thiên Long Bát Bộ của Kim Dung. Có nguồn gốc từ phái Tiêu Dao được Tiêu Dao Tử
sáng chế ra.Bắc Minh Thần Công được Đoàn Dự phát hiện cùng lúc với Lăng Ba Vi
Bộ. Đây là một môn nội công có tác dụng hút nội lực của người khác để cho bản
thân sử dụng. Bộ võ Bắc Minh Thần Công này có 36 hình vẽ con gái khoả thân ghi
các yếu quyết, huyệt đạo, kẻ đứng, người nằm, hoặc trước mặt, hoặc sau lưng,
cùng một khuôn mặt nhưng khi vui khi buồn, khi thì tình ý triền miên, khi thì
tỏ vẻ bực bội, mỗi bức 1 khác. 36 bức, bức nào cũng có những sợi chỉ màu chạy
trên thân hình ghi rõ bộ vị huyệt đạo và phương pháp luyện công. Bộ này được
ghi trên cuốn lụa mà cuốn lụa sau cùng ghi Lăng Ba Vi Bộ.
Hóa công đại pháp[sửa | sửa mã nguồn]
Hóa Công Đại Pháp là một môn nội công trong truyện Thiên Long Bát Bộ của Kim
Dung, khởi nguồn từ Bắc Minh Thần Công. Hóa Công Đại Pháp được sáng tạo bởi
Đinh Xuân Thu, bộ võ công này có mục đích là làm suy yếu nội lực của đối
phương nhưng không thể đem nội lực của đối phương để cho bản thân sử dụng. Hóa
Công Đại Pháp nguyên lý là hút chất độc từ các loài độc vật vào cơ thể sau đó
đánh vào cơ thể của đối thủ để hóa giải đi nội công của đối thủ. Bộ võ công
này khuyết điểm là phải hút chất độc hằng ngày để luyện công và cần dùng Thần
Mộc Vương Đỉnh để luyện công. Đây cũng là nguyên nhân khi A Tử đánh cắp Thần
Mộc Vương Đỉnh khiến cho Đinh Xuân Thu từ Tinh Túc phải trở về Trung nguyên.
Cửu Âm Thần Trảo
Theo truyện Anh hùng xạ điêu, Cửu Âm Bạch Cốt Trảo vốn có tên là Cửu Âm Thần
Trảo, là một trong nhiều môn võ công được ghi lại trong Cửu Âm Chân Kinh. Nổi
danh nhất với võ công này là Hắc Phong Song Sát (Đồng Thi Trần Huyền Phong và
Thiết Thi Mai Siêu Phong, 2 trong 6 đệ tử ban đầu của Đông Tà Hoàng Dược Sư).
Ngoài Hắc Phong Song Sát ra chỉ có Dương Khang (đã bái Mai Siêu Phong làm sư
phụ), Chu Chỉ Nhược phái Nga Mi và truyền nhân Thần điêu hiệp lữ (cô gái áo
vàng trong Ỷ thiên đồ long ký) là có sử dụng võ công này.
Cửu Âm Bạch Cốt Trảo mà Chu Bá Thông truyền thụ cho Quách Tĩnh Chính là Cửu Âm
Thần Trảo. Khi luyện Cửu Âm Thần Trảo thì chỉ dùng tay đánh vào vách đá để
luyên tập, nhưng do Mai Siêu Phong cùng sư huynh Trần Huyền Phong ăn cắp được
nửa quyển hạ Cửu âm chân kinh, sau đó tập luyện theo mà không hiểu yếu chỉ đạo
gia trong khẩu quyết võ công nên khi luyện dùng tay đánh vào sọ người sống,
khi luyện tập thường chất rất nhiều sọ người xung quanh nơi mình tập, từ đó
được giới giang hồ gọi là Cửu Âm Bạch Cốt Trảo.
Quyển hạ Cửu Âm Chân Kinh viết: "Năm ngón phát kình, không gì cứng không phá
được, chụp vào đầu óc như xuyên vào đậu hũ". Câu "Chụp vào đầu óc" ý là tấn
công vào chỗ yếu hại của địch nhân, Mai Siêu Phong lại tưởng là phải chụp vào
đầu người thật nên lúc luyện công cũng theo đó mà làm.
Di Hồn Đại Pháp[sửa | sửa mã nguồn]
Theo truyện Anh hùng xạ điêu, Di Hồn Đại Pháp là một ngón võ trong Cửu Âm Chân
Kinh, dùng sức mạnh tâm linh để điều khiển tâm thần đối phương, từ đó có thể
khắc chế địch để thủ thắng. Trong thuật "Di hồn đại pháp" thì căn bản là lấy
sự cảm ứng của tinh thần để khống chế đối phương. Nếu đối phương giữ được tinh
thần trong suốt, không hề bị ngoại cảnh hay điều gì bên ngoài chi phối, thì
thuật này không có hiệu lực lắm.
Hàn Băng Chưởng[sửa | sửa mã nguồn]
Hàn băng chưởng là một môn võ công do Tả Lãnh Thiền trưởng môn phái Tung Sơn
sáng tạo trong Tiếu ngạo giang hồ. Môn võ công này dựa vào phối hợp với hàn
băng chân khí mà sử dụng có tác dụng dùng hàn băng kình đánh vào thân thể và
kinh mạch đối thủ làm đóng băng kinh mạch đối thủ
Song Thủ Hỗ Bác[sửa | sửa mã nguồn]
Còn được gọi là Song Thủ Hỗ Bác Thuật, đây là một môn tuyệt kỹ có thể làm cho
1 người đồng thời thi triển hai loại võ công khác nhau bằng 2 tay, làm cho đối
thủ cảm thấy giống như đang đối đầu với 2 người. Theo truyện Anh hùng xạ điêu,
Chu Bá Thông ở trong động trên đảo Ðào Hoa mười lăm năm một mình không có ai
để chiết chiêu, mới nghĩ ra lối Song Thủ Hỗ Bác này để chơi đùa lấy tay trái
đánh nhau với tay phải, tay trái vẽ hình vuông, tay phải vẽ hình tròn, hai tay
có thể dùng vào hai việc.
Chu Bá Thông truyền cho Quách Tĩnh lối Song Thủ Hỗ Bác để chơi trò bốn người
đánh nhau: Tay trái Chu Bá Thông là một người, tay phải Chu Bá Thông là một
người, hai tay Quách Tĩnh cũng là hai người, bốn người này không ai giúp ai,
chia thành bốn phe đánh nhau một trận.
Theo Chu Bá Thông, lúc trên Đào hoa đảo võ công của y vẫn còn thua kém Hoàng
Dược Sư, Hồng Thất Công, Âu Dương Phong một bậc, nhưng đã luyện thành tuyệt kỹ
Song Thủ Hỗ Bác, phân thân giáp kích, lấy hai đánh một thì thiên hạ không còn
ai thắng được y nữa.
Thần Hành Bách Biến[sửa | sửa mã nguồn]
Đây là một môn khinh công cao cường. Môn võ công này xuất hiện trong Lộc đỉnh
ký cùng với Bích Huyết Kiếm do Mộc Tang đạo nhân của Thiết Kiếm Môn sáng tạo.
Về sau lại truyền cho A Cửu-Cửu Nạn, Cửu Nạn lại truyền cho Vi Tiểu Bảo.
Thiên Sơn Lục Dương Chưởng[sửa | sửa mã nguồn]
Theo Thiên Long Bát Bộ, Thiên Sơn Lục Dương Chưởng là một môn võ công của phái
Tiêu Dao. Môn võ công này gồm 6 thức, trong truyện đã đề cập đến 3 thức:
Dương ca thiên quân (陽歌天鈞)
Dương xuân bạch tuyết (陽春白雪): lấy từ tên của một trong thập đại danh tác cổ
cầm Trung Quốc. Đây nổi tiếng là một cầm phổ khó chơi. Dương Xuân Bạch Tuyết
dùng tiếng đàn miêu tả cảnh mùa xuân sang, tuyết đang tan ra. Ở thời điểm giao
mùa vẫn còn cái hơi lạnh của mùa đông nhưng đã có cái ấm áp của mùa xuân.
Tiếng đàn trầm bổng khoan hòa, nhẹ nhàng như nước chảy bên tai, làm người nghe
quên cả trời đất, cảm thấy trong lòng nhẹ nhàng sảng khoái.
Dương Quan tam điệp (陽關三疊): Dương Quan là một cửa ải ở biên giới tỉnh Thiểm
Tây. Đường thi có bài "Tống Nguyên Nhị sứ An Tây" của Vương Duy là một bài thơ
tiễn biệt rất đặc sắc. Vua Đường Huyền Tông lấy vào Nhạc phủ phổ thành một bài
hát gọi là "Dương Quan tam điệp" (ba nhịp Dương Quan) dùng để hát khi tiễn
biệt nhau.
Thiên Sơn Chiết Mai Thủ[sửa | sửa mã nguồn]
Theo Thiên Long Bát Bộ, Thiên Sơn Chiết Mai Thủ là một môn võ công của phái
Tiêu Dao. Thiên Sơn Chiết Mai Thủ có ba đường chưởng pháp và ba lộ cầm nã thủ,
tuy chỉ có sáu đường nhưng bao hàm tinh nghĩa của phái Tiêu Dao, trong chưởng
pháp và cầm nã thủ có ẩn giấu cả kiếm pháp, đao pháp, tiên pháp, thương pháp,
trảo pháp, thủ pháp các tuyệt chiêu của mọi loại binh khí, biến hóa rất phức
tạp.