Nước Tự Trôi


Người đăng: lmknickmail@

Ông Lục ngồi trên chiếc ghế đá tròn như cái trống làm bằng đá hoa cương. Trước
mặt ông là người đàn bà đã khiến ông thần hồn mê mẩn suốt hai mươi năm nay.
Người đàn bà lúc này vẫn giấu mặt sau tấm mặt nạ ly miêu vàng rực rỡ.

Phải khó khăn lắm ông Lục mới lên được vị trí này. Đây chính là phần trán rồng
trong Ngự long cách, bố cục thực tế chính là ngôi đình trên hòn giả sơn. Để
lên được đến đây, ông Lục đã phải trả một cái giá vô cùng đắt đỏ.

Sau khi ra khỏi hành lang râu rồng, ông đã chạm trán với một gã khổng lồ cao
lớn dị thường, cơ bắp cuồn cuộn, một bàn tay của gã đã đủ chụp kín đầu ông.
Sau đó, gã nâng cánh tay lên, ông Lục cũng bị nhấc bổng khỏi mặt đất. Gã khổng
lồ đã chuẩn bị quật thẳng ông Lục vào hòn giả sơn bên cạnh, may mà ông Lục
nhanh như chớp rút từ ống tay áo ra một cây bút, dứt khoát phóng thẳng cây bút
xuyên từ tai trái sang tai phải gã khổng lồ. Đó là một cây bút “thiên sư điểm
hồn về âm phủ” bằng đồng…

Khi đến hai cái đầm mắt rồng, mắt rồng đột nhiên chiếu rọi tinh quang. Tinh
quang chín là vô số cây phi tiêu hình con người, găm chi chít lên tứ chi và
hai bên sườn ông Lục, rất nhiều mũi phi tiêu đã nằm lại trong cơ thể ông. May
mà ông đã kịp dùng hai tay che chắn trước mặt và cổ, trong người còn có bàn
độn giáp bảo vệ cho tim, mới giữ được chút hơi tàn tiếp tục tiến lên…

Khi lần đến được cây cầu đá quái dị phía trước đình trán rống, ông đã chạm
phải cơ quan ở đầu cầu, khiến khảm diện hoạt động. Từ trong miệng bốn pho
tượng thú trên lan can cầu phóng vụt ra bốn con rắn hoàng vĩ. Ông đã gắng
gượng né tránh, nhưng vẫn bị ba con cắn trúng cổ, rồi nhất quyết không chịu
thả ra, thân rắn thẳng đơ treo lủng lẳng trông vô cùng gớm ghiếc.

Giờ đây, ông đã ở rất gần người đàn bà mang mặt nạ ly miêu. Người đàn bà nhìn
ông Lục, trong lòng cảm thấy cực kỳ kinh dị. Một nắm xương già nua yếu ớt
nhường kia, tại sao sức sống lại ngoan cường đến vậy.

Ông Lục không hề nhìn người đàn bà, mà nhìn vào chiếc bàn đá ở bên cạnh. Trên
bàn đá bày một cái mâm đế bằng rất lớn, bên trong đựng rất nhiều thanh đá được
gọt giũa vuông thành sắc cạnh. Nhìn vào độ nhẵn bóng và màu sắc của đá, có thể
thấy rằng, đây là loại đá điền hoàng cực kỳ quý hiếm. Ở giữa mâm là một thỏi
đá huyết thạch hình trụ tròn dựng đứng, sắc đỏ tươi nhuận như muốn tan chảy.

Chiếc mâm đế bằng này chính là “ý hình bàn” trong Phong thủy học, dùng một mâm
đựng toàn châu báu cực hiếm quý, bố trí căn cứ theo các yếu huyệt, chủ điểm
của tòa kiến trúc, sau đó tiến hành yểm bùa chú ý hình cho các bảo bối trong
mâm và các cấu trúc tương ứng trong kiến trúc thực. Như vậy, nhìn vào ý hình
bàn, có thể biết được tình trạng của các cấu trúc thực; mặt khác, cũng có thể
thông qua ý hình bàn để điều khiển và khống chế các kết cấu trong thực tế.

Cột đá huyết thạch ở giữa mâm chính là cây cột bàn long mà ông Lục đang muốn
tìm ra. Bên cạnh cây cột này, rất nhiều cột đá điền hoàng đã đổ xuống, cột này
đè lên cột kia, chứng tỏ khá nhiều kết cấu chủ đạo trong khu vườn đã sụp đổ.
Ông Lục nheo nheo mắt nhìn chăm chú, và phát hiện cây cột đá điền hoàng đè ở
trên cùng có vẻ như chính là vị trí khung cửa tròn bên cạnh bức tường xương
rồng. Có lẽ nó đã đổ xuống dưới sức công phá của khối thuốc nổ.

Giờ đây, khao khát lớn nhất của ông Lục chính là đẩy đổ cây cột đá huyết thạch
kia. Nếu làm được như vậy, toàn bộ khu vườn sẽ bị hủy diệt hoàn toàn, người
nhà họ Lỗ mới có cơ may sống sót. Nhưng việc đó đã nằm ngoài khả năng của ông.
Lần này, ông phải giở mánh khóe nữa. Với chút ít sức lực còn lại, giữ cho bản
thân ngồi yên mà không đổ xuống đã vô cùng chật vật. Cơ thể chao đảo của ông
cứ chực trượt xuống hay ngã nhào khỏi chiếc ghế đá.

Người đàn bà đã lên tiếng, giọng nói vẫn ngọt lịm điệu đà đến nhàm tai, nhưng
ông Lục lại thích. Giọng nói đã giúp ông tìm lại được cảm giác của hai mươi
năm về trước.


  • Gia tộc của ta là huyết mạch hoàng gia nào, ông hẳn cũng đã biết? – Trong
    giọng nói của người đàn bà tràn đầy vẻ cao ngạo.

Ông Lục hít một hơi thật nặng nề, khẽ gật cái đầu đang cúi gục.


  • Gia tộc ta kiến tạo khu vườn này là muốn có được một thứ bảo bổi để phục
    hưng hoàng mạch. Điều này hẳn ông cũng đã biết? – Người đàn bà tiếp tục hỏi.

Ông Lục tiếp tục hít một hơi đầy khó nhọc, nhưng lại khẽ lắc đầu.


  • Ồ! Vậy thì để ta nói cho ông nghe. Lão tổ tông của nhà chúng ta đã phải
    trải vô số gian nan, nếm muôn vàn cay đắng mới có được hai bảo bối. Có một vị
    cao nhân đắc đạo đã suy đoán rằng, nhờ hai bảo bối này, con cháu đời sau sẽ có
    thể giết rồng mà thành rồng. Nhưng lão tổ tông lại không nói rõ điều này với
    con cháu, chỉ để lại hai bảo bối và một bộ tổ huấn để con cháu đời sau tự mày
    mò. Vì vậy trong suốt mấy nghìn năm nay, dẫu rằng dòng họ của ta xuất hiện rất
    nhiều hiền tài danh sĩ, nhưng chẳng có ai làm nên bá nghiệp.

Ông Lục vẫn hít thở nặng nề, đầu cúi gục, nhưng lời người đàn bà vừa nói, ông
không bỏ sót một chữ nào. Trí não ông đang xoay vần thần tốc. Ông nhớ đến bức
tranh treo giữa chính sảnh, nhân vật trong tranh chính là lão tổ tông của gia
tộc này ư? Nếu người đó đúng là lão tổ tông nhà họ, việc có một bảo bối là
điều chắc chắn. Vậy bảo bối còn lại là thứ gì?

Người đàn bà không nhìn thấy khuôn mặt của ông Lục. Bà ta vẫn tiếp tục nhả
giọng ngọt lịm như đường để kể lại một câu chuyện kinh thiên động địa:


  • Mặt dù con cháu đời sau huyết thống phân chi rất rộng, nhưng hai bảo bối và
    bộ tổ huấn không hề thất lạc, vẫn luôn được bảo tồn nguyên vẹn. Cho đến cuối
    đời Nguyên, cuối cùng gia tộc ta cũng sinh ra được một vị hoàng đế. May mà vị
    hoàng tổ của ta đã mang hai bảo bối và bộ tổ huấn cho một cao nhân xem giúp,
    tìm ra được điều huyền diệu tàng ẩn bên trong, trợ giúp hoàng tổ nhà ta đoạt
    được thiên hạ.

Hơi thở của ông Lục càng thêm hào hển, các suy nghĩ xoay chuyển vùn vụt trong
đầu. Các tin tức mà ông đã biết, qua lời nói của người đàn bà, đã được liên
kết thành một chuỗi. Những gì Lỗ Thịnh Nghĩa từng nói với ông, nhưng ông vẫn
đinh ninh chỉ là truyền thuyết hoặc bịa đặt, giờ đây đều đã được người đàn bà
này chứng thực. Lời nói của người đàn bà đã rất rõ ràng, vị hoàng tổ mà bà ta
vừa nói chính là Chu Nguyên Chương, còn vị cao nhân chắc chắn là Lưu Bá Ôn.
Nếu không, khu vườn đã chẳng xuất hiện trên dòng sông Sơn Đường cổ kính vốn có
rất nhiều mối liên hệ với Lưu Bá Ôn, lại nằm đúng vị trí long đảm trên dòng
Sơn Đường hình rồng. Những lời nói vừa rồi không khỏi khiến ông Lục chấn động.

Đối phương là gia tộc họ Chu, đúng như Lỗ Thịnh Nghĩa đã nói với ông; đối
phương là hậu duệ của hoàng thất nhà Minh, cũng đúng như lời Lỗ Thịnh Nghĩa;
họ Chu nhờ vào bảo bối mới lên ngôi cửu ngũ chí tôn, tất cả đều đúng y như
những gì Lỗ Thịnh Nghĩa đã nói.

Người nhà họ Lỗ đã từng nói với ông Lục, sỡ dĩ họ đối đầu với nhà họ Chu chính
là vì những bảo bối thần diệu kia. Người nhà họ Lỗ phải đoạt lại bảo bối từ
tay họ Chu để phá hung huyệt định phàm giới, tạo phúc cho nhân gian và con
cháu đời sau. Nhưng nhà họ Lỗ có đủ khả năng để làm việc đó hay không? Ông Lục
không biết. Họ có thể bình thản đối diện với sức cám dỗ ghê gớm của ngôi vị
chí tôn hay không? Ông Lục cũng không biết.

Bị lừa gạt đến mức hoang mang, ông Lục giờ đây cảm thấy nghi ngờ tất cả, kể cả
động cơ và khả năng của người nhà họ Lỗ. Nhưng có một số sự việc vẫn hết sức
rõ ràng và chắc chắn, đó là cho đến lúc này, người nhà họ Lỗ chưa bao giờ lừa
gạt ông, cũng chưa bao giờ giấu giếm ông một điều gì.

Ông Lục biết, những lời vừa rồi của người đàn bà cũng không hề dối trá. Vì giờ
đây trong mắt bà ta, ông chẳng khác nào một người đã chết. Lừa dối một kẻ đã
chết là hoàn toàn không cần thiết.

Tấm mặt nạ ly miêu ánh lên những tia sáng vàng kim mờ ảo. Trời đã bắt đầu sẫm
tối. Người đàn bà vẫn ngồi trong một tư thế hết sức cao nhã, tiếp tục kể:


  • Hoàng tổ nhà ta thực sự đã nhờ vào bảo bối mà có được thiên hạ, cai trị
    thiên hạ. Vị cao nhân xem trong tổ huấn và bảo vật của tổ tiên, đã ngộ ra
    huyền cơ trong đó và mách nước rằng, bảo khí và năng lượng ẩn chứa trong bảo
    bối là không đủ, và đang dần dần suy yếu. Nếu muốn tiếp tục nạp đủ bảo khí,
    cần phải tìm nơi cát địa để cất giữ trăm năm. Nhưng thiên hạ là của nhà ta,
    làm sao có thể để kẻ khác chiếm đoạt cả trăm năm được, nên đành phải tìm cách
    khác. Vị cao nhân đó tìm khắp trong sách vở, đi khắp cả thiên hạ, dốc hết toàn
    bộ tinh khí thần, cuối cùng đã ngộ ra được một cách, đồng thời cất giấu cách
    này vào trong một hộp ngọc, giao cho người tại vị trong gia tộc đời đời lưu
    truyền. Đợi đến khi khí vận đã suy, hãy làm theo cách đó.

Hơi thở của ông Lục càng lúc càng kéo dài và nặng nề hơn, hít hay thở đều phập
phù không đều, dường như sắp đứt đoạn đến nơi. Thế nhưng trí não của ông càng
lúc càng minh mẫn khác thường.

Ông rất thông thuộc lịch sử triều Minh, đó là một vương triều rối loạn và kỳ
dị. Rất nhiều hiện tượng quái dị xuất hiện trong triều đại này và kết cục cuối
cùng của nó đều ứng nghiệm với thuyết bảo vật suy khí. Như vậy, phương pháp
của vị cao nhân kia hẳn là vẫn chưa được thực hiện, hoặc cơ bản là không hề
linh nghiệm.


  • Thành Tổ Đế đoạt ngai vàng của Kiến Văn Đế, sử sách đều nói rằng sau sự
    biến Tĩnh nạn, không biết kết cục của Kiến Văn Đế ra sao. Nhưng kỳ thực, không
    phải ông ta nhảy vào biển lửa tự sát như lời đồn đại, mà ông ta đã trốn thoát
    được ra ngoài.

Khi Thành Tổ Đế đánh vào Nam Kinh, có Vương Việt ở điện Phụng Tiên đã dâng lên
Kiến Văn Đế một chiếc hòm. Đây chính là di vật mà Thái Tổ hoàng đế để lại cho
người cháu yêu quý. Trong chiếc hòm có ba tấm độ điệp, ghi tên Ứng Văn, Ứng
Hiền, Ứng Năng, ám chỉ Kiến Văn Đế Chu Doãn Văn, giám sát ngự sử Diệp Hy Hiền,
giáo thụ của Ngô Vương là Dương Ứng Năng. Ngoài ra còn có ba bộ áo tăng, mười
đĩnh bạc trắng, một chiếc hộp ngọc, còn có cả một di thư.

Trên di thư viết rằng: “Ứng Văn đi ra từ Quỷ Môn, những người thoát khỏi ra từ
suối Thủy Quan, đến tối gặp nhau ở phía tây quán Thần Lạc!” – Lời nói của
người đàn bà vô cùng mạch lạc, tựa như bà ta đã tận mắt chứng kiến sự kiện này
– Kiến Văn Đế được chín người hộ tống, lên được chiếc thuyền do trù trị quán
Thần Lạc là Vương Thăng chuẩn bị sẵn tại dòng kênh Quỷ Môn, thoát được ra
ngoài. Từ lúc này rồng vào biển lớn, vân du nước mây, đến năm bốn mươi sáu
tuổi quy tiên. Sau khi người qua đời, những thủ hạ tài giỏi đã tìm kiếm gỗ
ngọc trân kỳ, làm thành một ngôi mộ di động ngầm ẩn dưới nước, để giúp người
có thể tiếp tục ngao du sông nước như lúc sinh thời.

Ông Lục thở ra một hơi thật dài, dường như muốn biểu thị mình đã hiểu. Nhưng
trong lòng ông vẫn còn rất nhiều nghi vấn, tại sao người đàn bà kia lại biết
được những bí mật lịch sử này?


  • Kiến Văn Đế đã mang theo hộp ngọc đi mất, trong đó có chứa đựng phương pháp
    đối phó khi bảo khí suy kiệt. Hộp ngọc đã bị mang đi, cục thế suy vong của
    hoàng triều họ Chu đã không thể cứu vãn. Nhưng các thế hệ hoàng tổ sau khi kế
    vị cũng đã nghĩ đủ mọi cách để phục hồi bảo khí. Trong đó, phương pháp linh
    nghiệm nhất chính là của Tuyên Tông Đế. Người đã nghiền ngẫm các bản chép tay
    của Thái Tổ và Lưu Cơ, rồi ngộ được huyền cơ từ trong đó. Nhưng chưa kịp thực
    hiện, đã bất ngờ mắc bệnh lạ mà đột ngột qua đời.

Trong lúc lâm chung, người chỉ để lại một bức tranh cá vàng và một câu di ngôn
vẻn vẹn hai chữ: “Tìm thủy” – Người đàn bà ngừng lại một lát, không hiểu tại
sao, thần thái của bà ta đột nhiên trở nên nôn nóng bất an – Sau này, các vị
hoàng đế kế vị đều tiến hành tìm kiếm từ nước. Có vị cho rằng Thủy thuộc âm,
có thể là phụ nữ, thậm chí còn tiến hành tìm kiếm manh mối từ cơ thể đàn bà,
nhưng vẫn là vô vọng. Sau cùng, Hy Tông hoàng đế tìm kiếm trong tổ huấn, còn
bỏ công nghiên cứu về nghề mộc vốn cũng có liên quan tới tổ tiên, thực là bệnh
gấp loạn tìm thầy.

Ông Lục lại thở ra một hơi dài. Chẳng trách triều Minh có nhiều chuyện quái
đản đến vậy. Minh Tuyên Tông thích vẽ tranh cá, đặc biệt là cá vàng. Nhưng cá
vàng trong tranh vẽ của ông hình dáng rất khác thường, vô cùng quái lạ. Minh
Vũ Tông xây dựng Báo Phòng, tập hợp đủ kiểu đàn bà vào trong đó, sai tám thủ
hạ thân tín là Bát Hổ đi vơ vét đủ thứ điển tịch quý báu trong thiên hạ, thích
ra ngoài ngao du, cuối cùng do đánh cá trên sông rơi xuống nước sinh bệnh mà
chết. Minh Thế Tông bắt cung nữ thu thập nước sương, kết quả là dẫn đến “sự
biến Nhâm Dần”, suýt chút nữa đã mất mạng trong tay cung nữ. Minh Hy Tông
không màng chính sự, chỉ say mê nghề mộc, xây dựng hai xưởng Đông Tây, thu
thập đủ loại sách cổ, nghiên cứu đủ loại kỹ thuật tinh xảo và bảo bối trân kỳ
trong thiên hạ, cuối cùng cũng là trong một dịp ngao du trên sông, không may
rơi xuống nước đổ bệnh mà chết. Những sự trùng hợp này tuyệt đối không hề đơn
giản, trong đó có ẩn chứa bí mật gì, hẳn chỉ có người đã chết kia mới biết
được. Nhưng hôm nay, theo như lời kể của người đàn bà, thì chí ít nhất họ cũng
có một mục đích chung: “tìm thủy”.

Giọng điệu của người đàn bà càng trở nên nôn nóng bất an, tư thái thong dong
cũng có phần biến dạng:


  • Mười năm về trước, chúng ta đã vô tình tìm được hậu duệ của Diệp Hy Hiền,
    người đã đào tẩu cùng Kiến Văn Đế năm xưa, lấy được ba bảo bối trấn trạch từ
    ngôi nhà tổ của họ, tìm được manh mối về ngôi mộ di động của Kiến Văn Đế. Vì
    vậy, chúng ta mới xây dựng khu vườn này ở đây để giam giữ ngôi mộ di động.
    Nhưng thật không ngờ, ngôi mộ đó lại được ba giống quái vật là quỷ nước, chạch
    rồng khổng lồ và dây tơ hồng hút máu bảo vệ nghiêm ngặt, nhà chúng ta đã bỏ ra
    không biết bao nhiêu thời gian công sức mà vẫn không thể mở được ngôi mộ để
    lấy hộp ngọc ra.

Sau này nhờ cao nhân chỉ điểm, nên bên trên bố trí Ngự long cách, bên dưới
thiết kế Tù long cục, dùng cột bàn long chặn lấy đuôi rồng, dùng bảy băng tinh
thổ hàn phong kín thất khiếu của rồng, lấy trộm bảy con ly miêu yểm chú bản
mệnh để tạo thành bức tường tỏa long, mục đích khiến cho con rồng chết kia
long khí suy kiệt, sau đó đoạt lấy long bảo. – Người đàn bà bỗng thở dốc,
không hiểu tại sao bà ta cảm thấy lồng ngực nghẹn tức, cổ họng khô khốc, trong
giọng điệu đang gượng uốn ra vẻ ngọt ngào cũng đã pha lẫn ít nhiều dư âm kỳ
quặc.

Nghe đến đây, trong lòng ông Lục cảm thấy vô cùng đắc ý. Những lời lẽ vừa rồi
của bà ta đã cho thấy, những phân tích và phán đoán của ông về non nửa bức
tranh còn lại trong tay người nhà họ Lỗ là hoàn toàn chính xác.

Nhưng khu trạch viện này quả thực không hề đơn giản, trong đó có rất nhiều
tướng cách và bố cục ông đã không thể suy đoán ra được. Thì ra bên dưới Ngự
long cách có một Tù long cục, bảy ly khóa thân rồng, bảy hàn phong thất khiếu,
một trụ chặn đuôi rồng. Bố cục tinh diệu không tiền khoáng hậu, nhưng suốt bao
nhiêu năm qua vẫn chưa thể lấy được một vật bé nhỏ cất giấu trong ngôi mộ. Xem
ra chân long tuy đã chết nhưng vẫn rất mực ngoan cường, long khí không tán,
thật là khó có thể tưởng tượng.


  • Ta nói ra những bí mật của gia tộc cho ông hay, vì muốn ông giúp ta tính
    thử xem sao. Tình hình bây giờ đã không thể khống chế được nữa. Quỷ nước lên
    bờ, dây tơ hồng mọc, chạch rồng đục khoét, lớp băng tan vỡ, đất đá sụp đổ, rốt
    cuộc nguyên nhân là vì đâu? Phải chăng nhà họ Lỗ có tuyệt chiêu kỳ lạ nào mà
    chúng ta không biết đến, hôm nay mới đem ra thi triển? – Người đàn bà nhìn ông
    Lục như chờ đợi một câu trả lời.

Ông Lục không phải kẻ ngốc. Có thể trước đây có người coi ông là kẻ ngốc,
nhưng một ông Lục đang ngồi tại chốn này tuyệt đối không phải. Ông biết sở dĩ
người đàn bà kia chịu tiết lộ bí mật với ông, bởi vì ông sắp chết. Kể cả khi
những thương tích hiện tại trên cơ thể vẫn không giết nổi ông, thì vị hồng
nhan tri kỷ kia cũng sẽ tự tay tiễn ông về địa phủ.

Nhưng giờ đây, ông Lục đang khao khát được lên tiếng để nói ra những suy đoán
và kết luận của mình. Đây rất có thể là cục thế lớn nhất mà ông đã phá giải
được trong suốt đời cuộc đời mình, nó sẽ trở thành niềm kiêu hãnh suốt đời của
ông. Niềm khao khát và kích động khiến làn khí trong lồng ngực ông đột ngột
dâng trào. Khi luồng khí phun qua cổ họng, ông cũng liên tục ọe ra đến mười
mấy búng máu ứ tím đen, hôi tanh khủng khiếp.

Người đàn bà đang cố gắng che giấu thái độ của mình, đôi mắt ma mỵ như mắt ly
miêu hơi nheo lại, nhìn thẳng vào ông Lục, có điều trong ánh mắt vẫn có một số
thứ không thể nào ngụy trang được.

Ông Lục từ từ ngẩng đầu lên, và nhanh chóng nhận ra điều đó. Ánh mắt đục ngầu
của ông dễ dàng đọc được nổi hoang mang, thống khổ, cay đắng đang ẩn hiện
trong ánh mắt của người đàn bà.

Nôn ra được máu ứ, ông Lục cảm thấy cổ họng nhẹ nhõm hẳn, thanh quản cũng
thông suốt thêm nhiều. Ông thử đặng hắng khẽ một tiếng, và kỳ lạ thay, cổ họng
đã phát ra được âm thanh.

Ông đưa mắt liếc xuống những con rắn hoàng vĩ đang lủng lẳng trên cổ, thân
hình chúng thẳng đuỗn, thì ra đã chết từ lâu. Có vẻ như độc tính của phân chim
cù thư còn mạnh hơn của lũ rắn, khiến cho chúng trúng độc mà chết. Nhưng độc
tính của rắn hoàng vĩ cũng vô cùng mãnh liệt, nên đã có hiệu quả “lấy độc trị
độc” với độc tố từ phân chim cù thư. Vì vậy, toàn bộ máu độc ứ đọng trong cổ
họng ông đã được tống khứ ra ngoài.


  • Khu nhà này đã mất đi vật trấn! – Ông Lục bật ra câu nói đầu tiên với giọng
    Bắc không thực chuẩn. Lời nói có phần kích động, nhưng cũng pha chút dương
    dương tự đắc.


  • Khu vườn này dùng Ngự long cách để chèn lên Tù long cách, ở giữa dựng cột
    bàn long chặn đuôi rồng để cố định thân rồng. Không biết cách cục này là do ai
    bày ra, quả thực là tuyệt diệu vô song, xứng đáng là cục đệ nhất từ cổ chí
    kim. Nếu như dùng cách cục này để vây khốn, hàng phục một người có mệnh tướng
    giao long hay mãng xà, người đó cho dù thành thần tiên hay ma quỷ cũng khó mà
    thoát thân. Nhưng nếu dùng để vây khốn chân long, cần phải có thêm một vật
    trấn khiến chân long sợ hãi. – Tuy cơ thể ông Lục vẫn run lẩy bẩy, nhưng lời
    nói rất rõ ràng rành mạch.


  • Ban nãy nghe lời nà nói, ngôi mộ kia đã được vây khốn từ rất lâu, nhưng
    chưa bao giờ xuất hiện tình cảnh như hiện nay, chứng tỏ nơi đây vốn dĩ có vật
    trấn. Phải chăng trong hia ngày nay nhà bà đã mất đi thứ bảo bối gì quý giá? –
    Ông Lục lại hít một hơi dài, sau đó từ từ thở ra.


  • Bà vừa nói nhà họ Chu có hai bảo bối, con cháu nhờ vào đó mà giết rồng
    thành rồng, tôi đoán rằng tổ tông nhà họ Chu có liên quan tới sự tích chém
    rồng. Như vậy, có một bảo bối hẳn là thứ để giết rồng, bảo bối này có thể trấn
    áp được chân long. Phải chăng nhà họ Chu đã đánh mất bảo bối này?


Ông Lục phân tích rất chính xác, lời nói rõ ràng, hơi thở đều đặn. Nhưng người
đàn bà không chú ý đến hiện tượng này, vì đang mải suy nghĩ về lời nói của ông
Lục, đồng thời cũng đang phải gắng gượng chịu đựng cảm giác khó chịu trong cơ
thể.

Thì ra là như vậy, người đàn bà cũng đã ngộ ra. Bảo bối không hề bị mất, mà
con trai của bà ta đã mang đi đối phó với gã cao thủ trẻ tuổi đã đột phá trạch
viện Bắc Bình. Bảo bối làm vật trấn đã không còn, vậy xem ra nơi này đã không
thể giữ được nữa, bản thân cũng nên bỏ của chạy lấy người là hơn. Ngày tháng
còn dài, sau này lo gì không thể dấy đất lại về. Chỉ cần phái người bám sát
theo ngôi mộ kia là được.


  • Không còn vật trấn, long khí ngùn ngụt bốc lên, chắc chắn sẽ xuất hiện tình
    trạng quỷ nước lên bờ, tơ hồng trồi khỏi mặt đất, trạch rồng đục khoét. Lớp
    đất đá phía dưới bị trạch rồng, dây tơ hồng đục ruỗng, mới có tình trạng thuốc
    nổ nổ ngược xuống dưới làm đổ cột trụ chống đỡ khu vườn. Tình cảnh hiện giờ
    của khu vườn là hoàn toàn nằm trong dự liệu! – Ông Lục vẫn tiếp tục phân tích
    và suy đoán. Mặc dù chân tay ông đã mềm nhũn rũ rượi, nhưng giọng nói càng lúc
    càng thêm sang sảng.

Người đàn bà biết rõ bước tiếp theo cần phải làm gì. Chính là phải khiến lão
già sắp chết kia mang theo điều bí mật mà câm lặng vĩnh viễn, câm lặng như một
xác chết. Bà ra nhìn ra xung quanh. Vì cuộc đối thoại này, bà ta đã đuổi hết
bon tay chân đi rồi, xem ra bà ta sẽ phải đích thân ra tay.

Từ trong ánh mắt đầy nôn nóng, bất an, khổ sở của người đàn bà, ông Lục đã
nhận ra một làn sát khí. Ông biết, nỗi đau khổ và bất an không phải vì cái
chết sắp giáng xuống đầu ông. Nếu quả thật như vậy, ông sẵn sàng chết một cách
cam tâm tình nguyện.

Đối với ông Lục, cái chết không hề đáng sợ. Khi tìm đến ngôi đình trán rồng,
ông đã không còn nghĩ đến chuyện sống sót trở ra. Nhưng bây giờ chưa phải lúc
để chết. Bất kể ra sao, ông vẫn phải tìm cách kéo dài mạng sống để đánh đổ cây
cột bàn long chính giữa ý hình bàn.


  • Cổ chú bản mệnh, thứ tà pháp này nếu mạnh hơn đối thủ sẽ thịnh, nếu yếu hơn
    đối thủ sẽ tự rước họa vào thân. Trong bảy con ly miêu, hẳn là không có con
    nào yểm bùa chú bản mệnh của bà chứ? – Ông Lục nói câu này cốt là để kéo dài
    thời gian, nhưng lời vừa nói xong, tự nhiên ông chợt sửng người. Tại sao lại
    không yểm bùa chú bản mệnh của người đàn bà này? Thứ bị vây khốn kia dù sao
    cũng là chân long, dẫu đã trở thành âm long, nhưng long khí chưa tán, vẫn cần
    phải có linh khí thánh âm khống chế. Bởi vậy, chắc chắn bảy con ly miêu đều
    được yểm bùa bản mệnh của đàn bà, hơn nữa, họ tuyệt đối không phải là hạng đàn
    bà tầm thường. Bà thái hậu này chắc chắn cũng là một trong số đó. Dù thật hay
    giả, bà ta ít nhiều cũng có thể được coi là phượng thế thánh âm.

Bà ta không đáp lại câu nói của ông Lục, nhưng thần thái trông càng thêm khổ
sở.

Bà ta biết rõ, tình trạng của bản thân đã đến hồi nguy kịch. Với tình trạng
hiện giờ, việc giết ông Lục lại càng trở nên bức thiết, nhưng cũng hết sức khó
khăn.

Nhưng tình trạng của ông Lục còn tệ hơn nữa. Những hơi thở sâu rời rạc lúc nãy
đã giúp tinh thần của ông khởi sắc đôi chút. Nhưng người luyện khí rất am hiểu
bản thân, có khởi sắc chẳng qua cũng chỉ là hồi quang phản chiếu.

Sát khí của người đàn bà đang dần dần trở nên dữ dội. Sát khí được tích lũy
một cách chậm rãi, với bà ta đó là một điều rất bất thường. Giết người với bà
ta là một việc quá đỗi nhẹ nhàng, nhưng để giết người, ngoài ý muốn ra vẫn còn
phải có đủ năng lực. Giờ đây, về cơ bản, bà ta đang tích lũy năng lực giết
người.

Ông Lục cũng đang dịch chuyển thân mình, gắng gượng tiếp cận ý hình bàn. Hơi
thở của ông trở nên dồn dập, nhưng trước mũi miệng không hề có khí trắng tỏa
ra. Chân khí đã tận, ông Lục biết ông chỉ còn lại một hơi thở cuối cùng để duy
trì sự sống.

Người đàn bà muốn đứng dậy. Nhìn vào những động tác khó nhọc của ông Lục, bà
ta cũng đã nhận ra ý đồ của ông. Nhưng bà ta mới chỉ hơi đổ người về phía
trước đã khựng ngay lại, thân người giữ nguyên tư thế nửa đứng nửa khom. Toàn
bộ cơ thể run rẩy dữ dội, miệng hé mở, đôi môi khô khốc, nhưng trán và hai má
lại ướt đẫm mồ hôi lạnh.

Cả hai người cùng nhìn sững vào đối phương. Trong khoảnh khắc này, họ hiểu
nhau hơn bao giờ hết, họ đã nhìn thấu đến chân tơ kẻ tóc mọi tính toán của đối
phương. Họ quả thực là một đôi tri kỷ. Không biết mối tình tri kỷ trước đây
của họ là thật hay giả, nhưng lúc này, họ thực sự là một đôi tri kỷ.

Người đàn bà hẳn vô cùng hối hận. Con người kia bà ta đã từng nắm giữ trong
tay, nhưng lại không biết lợi dụng cho thấu đáo, nếu không hôm nay đã chẳng
phải chuốc lấy kết cục này. Còn ông Lục chắc chắn cũng cảm khái muôn phần. Nếu
như không có người đàn bà kia, chắc hẳn giờ đây ông vẫn chỉ là một thầy phong
thủy tầm thường ôm chút tài năng vô dụng mà lang thang nơi chợ phố.

Gần như cùng một lúc, cả hai người đều kêu lên một tiếng khẽ, rồi lập tức ôm
chầm lấy nhau.

Ông Lục vòng hai cánh tay ôm chặt lấy gáy người đàn bà, ghì sát khuôn mặt bà
ta vào bên cổ, hệt như buổi tối của hai mươi năm về trước. Chỉ có điều bên cổ
ông giờ đây có thêm ba con rắn hoàng vĩ thẳng đơ. Chóp đuôi rắn cứng như thép
nhọn xuyên thẳng vào con mắt trái còn lộ ra dưới tấm mặt nạ, thấu vào tận óc.
Trước mắt người đàn bà lòa lòa máu đỏ, sắc đỏ thẫm dần, sau cùng chỉ còn lại
một màu đen thẳm.

Tay trái của người đàn bà ôm chặt quanh lưng ông Lục, ngón cái bên tay phải
chĩa ra như một mũi khoan, dùi thẳng vào tâm mạch của ông. Tim ông vỡ ra trong
nỗi đau buốt choáng váng, máu trong cơ thể như túa ra khắp các lỗ chân lông,
không còn quay về tim được nữa.

Chút hơi tàn của ông Lục đã tận, vai phải thõng chùng, cánh tay đặt trên gáy
người đàn bà rơi phịch xuống. Nhưng chút tâm lực cuối cùng của ông vẫn hướng
về ý hình bàn, cánh tay ông thuận theo đà rơi gắng gượng vươn về phía đó. Đầu
ngón tay thoáng lươt qua trụ đá huyết thạch, chỉ nghe “keng” một tiếng, nó đã
đổ nhào.

Cột bàn long sập xuống, mặt đất chấn động đảo điên, toàn bộ khu vườn rộng lớn
đã đến hồi tàn cục.

Nhà cửa thay nhau đổ xuống, cây cối bật gốc ngả nghiêng, đất đá rùng rùng sạt
lở. Cả một khu vườn kéo theo nhà cửa, cầu cống xung quanh, từ từ chìm vào
trong nước…

Ngũ Lang và Lỗ Ân ở dưới nước, trên đầu họ, những khối đất đá khổng lồ đen
ngòm đang trút xuống, trước mặt là hàng rào thép kiên cố không thể lay chuyển,
sau lưng là dòng nước tối đen không biết đã bị đất đá vùi lấp hay chưa. Tiến
thoái đều là đường chết.

Lỗ Thiên Liễu mặc dù đã chui qua được hàng rào, nhưng trước mặt là một vực
nước đen ngòm thăm thẳm, không biết phải bơi về hướng nào. Ngôi mộ di động
không lọt qua được hàng rào, lũ quỷ nước cũng không chịu chui qua. Không có
quỷ nước dẫn đường, cũng có nghĩa là không thể tìm ra con đường sống.

Chỉ có một người duy nhất có thể cứu được họ, một người vẫn lưu lại ở phía
trên, chính là Lỗ Thịnh Nghĩa. Một bên đầu gối của ông đã vỡ nát, vì vậy ông
phải sử dụng cả tay lẫn chân để bò đi. Bức tường đổ nát phía trước chắc chắn
là tường rào đoạn long, nhưng trên mặt đất hiển nhiên không hề có rồng để
chặn. Vậy dựng tường rào đoạn long ở đây làm gì? Tường đã sụp đổ, hàng rào
không thấy, vậy chỉ có một khả năng duy nhất, đó là hàng rào đã chạy xuống
phía dưới, thứ nó muốn chặn lại là con rồng ở dưới mặt đất.

Nhưng bất kể thế nào, ông cũng phải kéo hàng rào này lên, giải được khảm diện,
không cho phép đối phương triển khai thêm thủ đoạn nào nữa. Vì chí ít vẫn còn
Ngũ Lang đang kẹt ở phía dưới. Không biết tại sao, ý thức của ông đã gần như
quên bẵng mất sự tồn tại của Lỗ Ân.

Đây là một quá trình vô cùng thống khổ. Vừa cử động, đầu gối đã đau đớn kịch
liệt, giống như vô số mũi kim dài nhọn hoắt xuyên thẳng vào não tủy. Ông
nghiến răng lê lết được bốn năm chục bước, rồi từ trong đống gạch vụn, tìm ra
được một trụ đèn có phần đỉnh hình nóc đình sáu mái bằng đá hoa cương nằm sát
bức tường bao. Lúc này, nỗi đau đớn dữ dội từ đầu gối vỡ nát đá khiến ông muốn
lịm đi, nhưng ông vẫn gắng gượng vực mình dậy, bắt đầu lần sờ trên trụ đèn.

Ông không hề tìm thấy dấu vết của lẫy khảm, lẽ nào cây trụ đèn lại không phải
là then cài của tường đoạn long? Chắc là không phải, khảm diện có dạng hàng
rào thường được thiết kế nhiều điểm chốt, vì loại khảm diện này có phạm vi
tương đối rộng, khoảng cách khá dài, nên khi nguy cấp không thể lập tức di
chuyển đến một vị trí đặc định, bởi vậy phải thiết kế nhiều điểm chốt khác
nhau. Mặt khác, còn là một chốt động, toàn bộ khảm đều động. Trước khi di
chuyển về hướng này, ông đã quan sát hướng đối diện, chí ít trong vòng hai
mươi bước không phát hiện thấy điểm then chốt. Ông lết về phía này cũng chừng
bốn năm mươi bước, hai bên cộng lại khoảng sáu bảy chục bước, theo lý mà nói,
trong khoảng cách này chắc chắn sẽ có điểm chốt.

Ông tiếp tục quan sát thật kỹ toàn bộ trụ đèn, và đột nhiên chú ý đến ngọn nến
ở phía dưới mái đình. Ông bèn đưa tay kéo ngọn nến ra ngoài. Cột đèn không có
phản ứng gì, khảm diện cũng không hề nhúc nhích.

Đúng, cách bố trí của khảm diện này không hề đơn giản như vậy. Lỗ Thịnh Nghĩa
lại tiếp tục áp sát nóc đình sáu mái. Lần này, ông đã phát hiện ra tại vị trí
đặt nến có một lỗ nhỏ. Vừa nãy, do ngọn nến che khuất cái lỗ nên ông không
nhìn ra được. Lẫy khảm rất có thể ở trong cái lỗ này!

Lỗ Thịnh Nghĩa mở ngăn kéo hòm gỗ, lấy ra một ống trúc, rồi đổ từ bên trong ra
mấy cây kim thép. Mỗi cây một hình thù, lớn, nhỏ, dài, ngắn, cứng, mềm, cong,
thẳng, trơn, móc, kiểu gì cũng có. Đây là bộ dụng cụ chuyên dùng để kéo lẫy
bày khảm của khảm tử gia. Lỗ Thịnh Nghĩa chọn ra một chiếc kim thép mảnh, mềm,
vô cùng dẻo dai, rồi chọc vào trong lỗ.

Mũi kim chỉ xuyên vào được một chút. Lỗ Thịnh Nghĩa bèn nhẹ nhàng xoay chuyển
cán kim, thay đổi phương hướng, mũi kim tiếp tục xuyên xuống một chút nữa.
Nhưng sau đó, dù ông đã cố gắng đủ cách, nó cũng không thể xuống thêm.

Lỗ Thịnh Nghĩa thở dài thườn thượt rồi rút mũi kim ra. Đây là kiểu lỗ đặt lẫy
“quanh co chín khúc” được thiết kế chuyên để đối phó với bộ kim của nhà họ Lỗ.
Kim không xuyên xuống được, lẫy không thể nén, khảm diện cũng sẽ không giải
được.

Lúc này, toàn bộ khu vườn đang rung lắc dữ dội, cây cối, cột kèo rầm rầm đổ
xuống. Nhà cửa xung quanh xô vẹo ngả nghiêng, ngói trên mái nhà xô nhau tuốt
xuống từng mảng lớn.

Lỗ Thịnh Nghĩa như kẻ mất hồn, giương mắt nhìn trân trân vào cái lỗ trước mặt.
Cây kim của ông không thể gảy được lẫy khảm, bây giờ biết tìm thứ gì đủ nặng
để xuyên qua cái lỗ chín khúc kia, chạm tới nút lẫy?

Một cây long não bỗng đổ ngang xuống ngay bên cạnh Lỗ Thịnh Nghĩa, cành cây
đập trúng đầu gối, khiến ông đau đến chết điếng, vội xoay người dùng tay kéo
cái chân bị thương bên dưới cành cây ra. Vừa xoay người, một quả cầu bỗng rơi
ra từ trong áo. Vừa nhìn thấy quả cầu, mọi nỗi đau đớn như vụt tan biến, ông
mừng rỡ đến nỗi chỉ muốn nhảy cẫng lên.

Đó chính là quả cầu tìm dốc. Quả cầu không có tác dụng gì, nhưng thủy ngân
chứa đựng bên trong thì có. Nó chính là thứ có thể di chuyển qua chín khúc
cong bên trong lỗ đặt lẫy.

Lỗ Thịnh Nghĩa không kịp nghĩ gì thêm, lập tức cầm con dao khắc gỗ rạch vào
lớp vỏ của quả cầu tìm dốc. Sau đó, ông giữ chặt quả cầu trong đôi tay to lớn,
ghé sát chỗ rạch vào miệng lỗ.

Lại một cây bao đồng bật gốc đổ ào xuống, một cành cây rất lớn đã quật trúng
đùi Lỗ Thịnh Nghĩa. Ông rú lên một tiếng thê thảm, nhưng bàn tay đang giữ quả
cầu vẫn không hề rung động, dòng thủy ngân đã được đổ gọn gàng vào trong lỗ.

Cuối cùng, tường đoạn long đã được kéo lên. Nửa thân trên của Lỗ Thịnh Nghĩa
cũng đổ vật xuống đất, chìm khuất hẳn dưới đám cành lá rậm rạp của cây bao
đồng cổ thụ.

Bầy quỹ nước ào ào kéo theo ngôi mộ tiến về phía trước, đám chạch rồng xúm xít
bám theo sau, chúng di chuyển về phía vực nước tối đen với tốc độ cực nhanh.
Lỗ Thiên Liễu đứng trên ngôi mộ, chỉ một lát sau đã nghe thấy tiếng nước chảy
phía trên đầu, và cũng đã ngửi thấy một thứ mùi sống động. Cô lập tức dậm mạnh
hai chân, nhanh chóng bơi lên phía trên.

Khi Lỗ Thiên Liễu ngoi lên khỏi mặt nước, sắc trời đã lờ mờ tối. Trước mặt cô,
khu vườn đã biến mất hoàn toàn, chỉ còn thấy một dòng nước xanh đen đang chảy
qua những đống đổ nát.

Ở phía xa xa, chỉ còn lại nửa khối giả sơn trơ trọi bên trên mặt nước. Trên
đỉnh giả sơn là một ngôi đình nhỏ, mái ngói đã biến mất, chỉ còn lại cây cột
đình xiêu vẹo. Cùng đứng đó với cây cột còn có hai người, hai người đang ôm
chặt lấy nhau, tựa như không thể chia lìa.

Mặc dù trời đã sẩm tối, nhưng Lỗ Thiên Liễu vẫn có thể nhận ra, một trong hai
người đó chính là ông Lục. Cô cất tiếng gọi, nhưng ông Lục không hề nhúc
nhích.

Một con thuyền nhỏ đang xuôi theo dòng nước đến gần. Lỗ Thiên Liễu nhận ra
người chèo thuyền là Ngũ Lang, liền lập tức bơi lại gần, bám lấy mép thuyền
rồi tung người lên trên. Trong khoang thuyền đã đốt sẵn một lò than, Lỗ Ân nửa
thân trên để trần, phơi ra vô số vết thương đẫm máu, đang ngồi cạnh bếp lò run
lập cập.

Lỗ Thiên Liễu vừa lên thuyền, lập tức cảm thấy lạnh buốt thấu xương. Nhưng cô
không vội bước vào trong khoang, cũng không nói tiếng nào, chỉ hít lấy hai hơi
thật sâu, hơi thở ngưng tụ thành một làn sương trắng mờ trước mũi. Các giác
quan dị thường của cô lại bắt đầu đi vào cảnh giới thoát phàm.

Hai người trên ngôi đình đã không còn hơi thở. Hai hàng nước mắt chảy dài trên
khuôn mặt Lỗ Thiên Liễu, cô âm thầm đem hình bóng ông Lục khắc sâu vào ký ức.

Tiếng rên rỉ vang lên khắp nơi trong những đống đổ nát, mặc dù chìm lẫn trong
âm thanh sạt lở và tiếng nước phun trào xối xả, rất khó nhận ra, nhưng Lỗ
Thiên Liễu không hề bỏ sót một vị trí nào.

Tiếng rên vọng ra bên dưới tán lá lòa xòa của một cây bao đồng đổ gục phía
trước nghe rất đỗi quen thuộc, chắc chắn là tiếng của cha cô. Lỗ Thiên Liễu
vội vã nhún mình nhảy vụt lên đống đổ nát, lật tung đám cành lá. Ngũ Lang đang
đứng trên thuyền cũng lập tức cắm sào dừng lại, tung mình nhảy lên.

Cành cây cào xước khắp cơ thể khiến Lỗ Thịnh Nghĩa toàn thân máu thịt chan
hòa, nghiêm trọng nhất là phần đùi đã bị một cành cây lớn đè ngang, không thể
cử động.

Ngũ Lang chặt đứt cành cây, rồi nhanh chóng cõng Lỗ Thịnh Nghĩa lên thuyền,
đưa vào trong khoang.

Con thuyền tiếp tục trôi theo dòng nước. Lỗ Thịnh Nghĩa vẫn nằm hôn mê bên
cạnh Lỗ Ân, trông chẳng khác nào đã chết. Lỗ Thiên Liễu thử kiểm tra hơi thở
của ông, thấy ông vẫn thở đều, trái tim đang muốn treo ngược của cô mới yên
tâm chút ít.

Thoáng chốc, con thuyền đã ra đến sông Sơn Đường, rồi đi thẳng ra phía ngoài
thành Cô Tô.

Bấy giờ mới nghe phía xa văng vẳng có tiếng người hô hoán. Đó là những dân cư
chòm xóm xung quanh đang gọi nhau đến cứu người.

Bên cạnh một vũng nước trong đám gạch đá tan hoang, có một pho tượng ly miêu
bằng đá đổ nghiêng ngửa đầu nhìn trời, tựa như đang mải miết suy tư(*).

(*) Pho tượng ly miêu này đến nay vẫn được bảo tồn ơ bảo tàng Tô Châu.

Trong lúc khu vườn sạt lở, ngôi mộ di động đã bị gạch đá va phải, khiến gõ
ngọc trên mộ lung lay bong tróc mà nổi dần lên trên mặt nước. Về sau, ngôi mộ
dạt vào bên một bờ sông ở Ngô Huyện, được người dân phát hiện ra, đưa về an
táng tại một sườn núi nhỏ phía sau am Hoàng Giá trên núi Khung Long.

Ngày hôm đó, trong “Cô Tô thành chí”(*) có chép rằng: “Một nhánh của sông Sơn
Đường đột nhiên phun ra dòng nước quái lạ, mặt đất nứt vỡ ngở rằng nước ngầm
dưới lòng đất trào lên. Phá hủy một khu vườn lớn và vô số nhà cửa xung quanh”.

(*) Một bộ sách ghi chép lại các sự kiện quan trọng từ cổ chí kim của Tô Châu,
tương truyền có tổng cộng hơn năm mươi cuốn, vốn được lưu giữ tại đền Tử Tư
trong Tư Môn. Trong kháng chiến chống Nhật, đền Tử Tư bị máy bay Nhật oanh tạc
bốc cháy, cả bộ sách đều bị thiêu hủy.

Nhân lúc trời tối, một lá thuyền con lao ra mặt nước Thái Hồ, đi thẳng về
hướng Vô Tích.

Lỗ Thịnh Nghĩa không hề tỉnh lại một lần. Ngũ Lang thay cho ông bộ quần áo khô
ráo, Lỗ Ân giúp ông cố định những chỗ xương gãy, nhưng ông cũng không có phản
ứng gì.

Lỗ Thiên Liễu ngồi trước mũi thuyền, cô đã thay một bộ quần áo bông màu huyết
dụ. Gió đêm thổi từng cơn buốt giá, nhưng cô không hề cảm thấy lạnh, có lẽ là
do đã phải ngâm mình trong nước lạnh giá quá lâu. Thậm chí cô còn cảm thấy
nóng ran trên hai má.

Trên tay cô đang giữ chiếc hộp ngọc lấy ra từ trên nắp mộ. Cô không biết đây
có phải là thứ mà cha cô đang tìm kiếm hay không, cũng không biết nó có tác
dụng gì. Nhưng cảm giác trơn tru ấm áp từ hộp ngọc lan tỏa trên lòng bàn tay
khiến cô cảm thấy vô cùng dễ chịu.

Có người đang len lén nhìn chiếc hộp ngọc trong tay cô. Không phải chỉ có một
người. Ba giác mẫn cảm dị thường của cô đã cảm nhận được điều đó. Những ánh
nhìn lén lút khiến cô cảm thấy hết sức nhột nhạt.

Họ đang ở trong khu vực Thập Bát Vịnh của Thái Hồ. Trong màn đêm đen đặc, đã
thấy bóng núi Long Sơn thấp thoáng ven bờ. Sắp đến nhà rồi, chỉ đi thêm chút
nữa là tới địa giới Dương Sơn.

Đột nhiên, trước mặt vọng đến một tiếng huýt gió chói tai, từ trong đám lau
sậy khô héo nhô ra một ngư thuyền nhỏ, lao thẳng đến trước mũi thuyền của họ.

Gần như cùng lúc đó, từ mé bên cạnh, một con thuyền lớn hơn vụt ra từ trong
sương mù, lừ lừ tiến thẳng về phía mạn thuyền.

Lỗ Thiên Liễu lập tức đứng bật dậy, từ cô toát lên một vẻ trấn tĩnh khác
thường chỉ có ở những người vừa thoát ra khỏi một trường ác chiến sinh tử tấc
gang.

Nhưng lại một tiếng huýt gió nữa đã khiến tim cô thắt lại. Tiếng huýt gió quá
gần, ở ngay trên chiếc thuyền, ở ngay sát sau lưng…


Lời Nguyền Lỗ Ban - Chương #60