Người đăng: lmknickmail@
Bộ pháp của Lỗ Ân tinh nhanh mạnh mẽ, hệt như con báo trong rừng sâu, một con
báo đã bị thương sau một trận đấu kinh tâm động phách.
Khoảng cách từ ao nước đến hành lang không hề xa, chỉ khoảng ba bốn chục bước
chân. Nhưng chính trên quảng đường ngắn ngủi này, một cao thủ lão luyện như Lỗ
Ân đã bị lạc lối. Ông nhìn thấy đoạn hành lang, nhưng đi mãi không tới. Ông
nhìn thấy căn lầu nhỏ ngay trước mắt, nhưng không thể lại gần. Vì tầm mắt ông
luôn bị chắn ngang bởi các khóm hoa, lùm cây, tường gai. Những chướng ngại vật
này kỳ thực không hề đáng ngại, bởi vì xét về độ cao hay chiều rộng, Lỗ Ân đều
có thể nhảy vọt qua. Nhưng ở một nơi đầy cạm bẫy như thế này, không thể hành
sự hồ đồ. Cho dù phía trước chỉ có hai chậu hoa chắn đường, cũng chỉ được đi
vòng mà không được nhảy qua. Nơi không có đường tức là đường chết, đây chính
là nguyên tắc căn bản trong khảm diện.
Vòng vèo qua lại đến mấy lượt, Lỗ Ân cảm thấy đã đi cả mười mấy dặm đường, vậy
mà hành lang và căn lầu nhỏ vẫn ở nguyên chỗ cũ, không hề gần lại chút nào.
Dường như cỏ cây hoa đá bố trí trong khu vườn đang không ngừng biến hóa và di
chuyển. Vì vậy, mặc dù chỉ có vài thứ ít ỏi, nhưng Lỗ Ân cảm thấy vô cùng rối
loạn.
Đối phương có một khảm diện tuyệt diệu tên gọi là con đường Tấc gang ngàn dặm,
khá tương tự với đường vòng Rồng vờn đá tảng của nhà họ Lỗ, đều sử dụng Bắc
Đẩu thất tinh nối liền sao Nhị Đảm(*) ở đầu đuôi, tiến hành bố trí theo phương
pháp đẩu chuyển tinh di, chỉ cần dùng đến vài dụng cụ đơn giản là đã có thể
khiến đối phương không thể thoát thân.
(*) Nhị Đảm có nghĩa là hai gánh, chòm sao này gồm một sao Ca Đảm (anh gánh),
một sao Đệ Đảm (em gánh) và hai sao Miên Hoa Đảm (gánh bông), hai sao Thạch
Đầu Đảm (gánh đá).
Lẽ nào đây chính là cong đường Tấc gang ngàn dặm? Hai khóm cây bụi, hai khoảnh
vườn hoa, một tảng đá Thái Hồ, một chậu thả lá sen, một bức tường gai, vừa vặn
hợp với số Bắc Đẩu thất tinh. Nhưng vị trí sáu ngôi sao của chòm Nhị Đảm nối
liền đầu đuôi nằm ở đâu? Không tìm được vị trí của sáu ngôi sao này, thì chỉ
có thể quanh quẩn ở giữa khảm diện, đến cả rìa khảm cũng không thể tìm ra.
Nếu tuân thủ đúng quy tắc đọ tài trong môn khảm diện, để từ từ tìm cách phá
giải hoặc tìm chỗ khuyết để thoát ra, chí ít cũng phải mất đến một hai ngày.
Nhưng giờ đây, Lỗ Ân cần phải phá giải càng nhanh càng tốt. Như vậy, chỉ có
một chiêu duy nhất, đó là mạo hiểm phá vỡ chỗ không, liều mình một phen.
Để đưa ra quyết định này, phải có lòng quyết tâm và sự tự tin rất lớn. Mặc dù
tìm ra chỗ không sẽ dễ hơn so với tìm chỗ khuyết hay cơ quát, thế nhưng phá vỡ
chỗ không lại rất nguy hiểm. Chỗ không, chỗ khuyết, cơ quát trong khảm diện có
sự khác biệt rất lớn. Thực ra chỗ không chính là một bộ phận cấu thành quan
trọng của khảm diện, chính là khe hở hay khoảng trống ngoài rìa để các nút
phóng ra, cũng chính là điểm chuyển ngoặt khi khảm diện hoạt động. Thực chất,
đây chính là vị trí có uy lực sát thương nhỏ nhất trong khảm diện. Phá chỗ
không là chiêu thức bất đắc dĩ khi người bị vây khốn trong khảm diện đã không
còn cách nào khác, có thể coi là phương pháp hạ đẳng để thoát khỏi khảm diện.
Nhưng không phải khảm diện nào cũng đều dễ tìm ra chỗ không. Ví dụ như đường
vòng Rồng vờn đá tảng của nhà họ Lỗ rất khó tìm ra được chỗ không, vì khảm
diện đó thuộc loại khảm vây. Trong khảm vây, khảm chính là nút, nút chính là
khảm, không thể tìm ra khoảng trống vốn dùng để phóng nút. Con đường Tấc gang
ngàn dặm này cũng có mục đích tương tự như Rồng vờn đá tảng, chắc chắn muốn
tìm được chỗ không là rất khó khăn.
Mặc dù Lỗ Ân ở nhà họ Lỗ nhiều năm, song vẫn chưa tìm ra được chỗ không của
con đường Tấc gang ngàn dặm. Nhưng ông cảm thấy rằng, tại chỗ tiếp nối giữa
con đường Tấc gang ngàn dặm và Vô ảnh tam trùng sát rất có thể sẽ có chỗ
không. Nhưng lúc này, ông đã không tìm được đường quay lại.
Chỉ cần là chiêu thức, hẳn sẽ có sơ hở; chỉ cần là con người, hẳn sẽ có nhược
điểm; chỉ cần là khảm diện, hẳn sẽ có khiếm khuyết. Đây chính là chân lý của
Lỗ Ân. Vì vậy ông tiếp tục rảo bước nhanh hơn, nghĩ rằng cứ vòng qua vòng lại
vài lần nữa, hẳn sẽ phát hiện được điều gì đó.
Đang chạy gấp, Lỗ Ân chợt phát giác ra một thứ, những cơn hoa mắt chóng mặt dữ
dội đã khiến ông loạng choạng, cơ thể ngả nghiêng không thể đứng vững. Ông vội
chống cây khảm đao bên tay trái xuống đất để đỡ lấy cơ thể, nhưng đã không kịp
nữa.
Ông đổ vật xuống như một thân cây vừa bị đốn, lăn lông lốc về phía trước. Cây
khảm đao vẫn cắm sâu trên đất, phần lưỡi sáng xanh rung lên bần bật, giống như
mặt nước hồ thu lấp loáng. Cũng không có gì đáng ngạc nhiên, vết thương do mũi
đoản mâu để lại trên vai chảy máu quá nhiều, lại thêm nãy giờ bôn ba tìm kiếm
trong khảm diện đã khiến ông tiêu hao nhiều thể lực, hơi thở không thông
thuận, đờm tắc trong tâm khiếu, nên mới lăn ra bất tỉnh.
Trên thềm đá chìa ra mặt nước trước cửa căn lầu nhỏ bỗng xuất hiện một người
đàn bà, đột ngột tựa bóng ma. Đó là một người đàn bà mang mặt nạ ly miêu màu
trắng bạc. Tấm áo gấm thêu rực rỡ dày cộm phủ kín thân người, nhưng những
đường nét mỹ miều trên cơ thể vẫn ẩn hiện thấp thoáng. Người đàn bà đứng bất
động trên thềm đá, hệt như một pho tượng nhiều màu.
Sở dĩ người đàn bà này xuất hiện trên thềm đá, vì từ vị trí ẩn nấp ban đầu, ả
đột ngột không nhìn thấy Lỗ Ân đâu nữa. Thế nhưng dù đã bước lên thềm đá, ả
vẫn không nhìn thấy Lỗ Ân.
Bức tường dây gai, tảng đá Thái Hồ, chậu thả lá sen, ba thứ này vừa vặn che
khuất Lỗ Ân từ ba mặt. Mặt còn lại mặc dù chỉ là một luống hoa thấp, nhưng nếu
muốn nhìn thấy ông từ hướng này, buộc phải đứng trên con đường nhỏ dẫn đến
hành lang. Đó là vị trí dụ người vào khảm, khảm tử gia sẽ không bố trí nút lẫy
khống chế khảm diện tại đó.
Sau khi Lỗ Ân ngã xuống bất tỉnh, ông không đứng lên được nữa. Người đàn bà
mang mặt nạ ly miêu vẫn đứng yên bất động. Khu vườn bỗng trở nê yên ắng lạ
thường, chỉ còn lại tiếng lào xào khe khẽ của gió Bắc thổi qua lá úa, và chút
xao động của gợn sóng lăn tăn dưới mặt ao.
Rất lâu rất lâu sau, cuối cùng, người đàn bà mang mặt nạ ly miêu màu bạc cũng
đã chậm rãi đưa cánh tay trái lên. Đây chính là một mệnh lệnh, một mệnh lệnh
không cần phải nghi ngờ.
Một bóng đen cao lênh khênh nhanh chóng chui ra từ dưới lan can đá của luống
hoa phía đầu hành lang, như một ngọn gió nhẹ nhàng lao vút về phía con đường
nhỏ, rồi ngoặt một cái vòng qua khóm cây, bước xéo thêm vài bước, đã đến mé
bên kia của chậu thả sen.
Chậu thả sen chứa đây nước không những to lớn nặng nề, mà còn rất cao. Gã cao
kều phỉa kiễng hẳn chân lên mới có thể nhìn thấy đôi chân của Lỗ Ân thấp
thoáng sau đám lá sen khô héo. Gã liền quay đầu đưa mắt ngầm ra hiệu cho người
đàn bà đứng trên thềm đá. Người đàn bà vẫn mặt lạnh như tiền, chỉ gật đầu thật
mạnh.
Chậu lá sen bắt đầu xoay chuyển, rồi trượt đi chậm rãi không một tiếng động,
hệt như phiến lá lướt trên mặt nước.
Vang lên tiếng quát lớn của một người đàn bà, phía cuối giọng nói sắc lạnh có
pha lẫn chút âm sắc ngọt ngào. Giọng nói được truyền đến từ mé bên kia của ao
nước.
Nhưng đã chậm một bước! Mặc dù người đàn bà đứng trên thềm đá đã vội vã đưa
tay ra hiệu dừng lại, mặc dù gã áo đen cũng đã gắng hết sức bính sinh ngăn cản
chậu lá sen tiếp tục chuyển động, nhưng tất cả đã quá muộn. Chậu lá sen ngoan
cố vẫn tiếp tục xoay đi. Không phải là cơ quát đã chờn, mà là do ở mé bên kia
của chậu sen, có một lực đạo mạnh mẽ hơn nữa đang đẩy nó đi.
Đó là một cánh tay trái, cánh tay trái của một đao khách. Mặc dù cánh tay này
thường ngày không cầm đao, nhưng nó là trợ tá đắc lực của cây đao, sẵn sàng
giáng cho đối phương những đòn chí tử trực tiếp. Bởi vậy, bản thân nó cũng
phải sở hữu một kình lực cực mạnh khiến đối thủ không thể chống đỡ. Nhưng nếu
chỉ là một cánh tay trái, sức mạnh của nó sẽ không đủ để đối chọi với cả hai
cánh tay của gã áo đen. Nhưng vì chậu lá sen thuộc loại nút che mắt xoay một
chiều, cách thức xoay chuyển của nó là đơn hướng và có trật tự. Vì vậy, chỉ
cần đẩy theo phương hướng đúng như thiết kế, sẽ khiến nó xoay chuyển dễ dàng.
Sau khi nó đã chuyển động, muốn nó dừng lại, cần phải tác động một lực đạo cực
lớn, trừ khi đã chuyển động sang vị trí của khảm tướng tiếp theo. Sức mạnh của
hai cánh tây đương nhiên là lớn hơn sức mạnh của một tay trái, nhưng sức mạnh
của một tay trái cộng thêm sức mạnh của đà chuyển động của cơ quát sẽ vượt xa
sức mạnh của hai cánh tay.
Gã áo đen dùng cả hai tay giữ chặt lấy chậu lá sen, nhưng hai chân không trụ
nổi cứ trượt thẳng về phía trước. Gã biết sức lực của gã không đủ để giữ chậu
thả sen lại, gã làm thế kia chỉ là để chứng tỏ cho hai người đàn bà kia biết
mình đã cố gắng hết sức. Nhưng gã cũng hiểu, khi chuyển động đến vị trí của
khảm tướng tiếp theo, lẫy chuyển động vừa khớp vào khe hãm, cân phải lập tức
chặn chậu sen dừng lại, tuyệt đối không được để nó tiếp tục xoay chuyển sang
vị trí tiếp theo.
Sau một hồi chạy loanh quanh tìm kiếm trong con đường Tấc gang ngàn dặm, Lỗ Ân
vẫn không tìm được đường trở lại, nhưng ông đã phát hiện ra một chỗ khiếm
khuyết trong khảm diện, một khiếm khuyết nghiêm trọng mà ông có thể lợi dụng
được.
Trong “Thiên tú tinh thuyết”(*) của nhà thiên văn nổi tiếng đời Đường, Viên
Thiên Cương có viết: “Bắc Đẩu thất tinh, thứ nhất Thiên Khu, thứ hai Thiên
Toàn, thứ ba Thiên Cơ, thứ tư Thiên Quyển, thứ năm Ngọc Hành, thứ sáu Khai
Dương, thứ bảy Dao Quang. Thất tinh hình thành cán gáo, cán gáo có thể thay
đổi”.
(*) Tương truyền đây là trước tác của Viên Thiên Cương, bởi vì nó ra đời vào
giai đoạn thịnh vượng của triều Đường, do quan viên sao chép. Trong thời kỳ
đó, người tinh thông thiên văn ngoài Viên Thiên Cương không còn nhân vật nổi
bật nào khác, đồng thời lúc đó, cũng chỉ có Viên Thiên Cương vốn được hoàng đế
cực kỳ sủng ái mới có thể khiến các quan viên sao chép. Nhưng cũng có thuyết
cho rằng đây là trước tác của một thương nhân Tây Vực tên là Phác Thịnh Đức,
Phác Thịnh Đức có một giai đoạn giúp Viên Thiên Cương quan sát thiên văn, sau
làm quan tới chức Khám thiên doãn. Vì vậy, cũng có khả năng thành quả của Phác
Thịnh Đức đã bị Viên Thiên Cương giành lấy.
Trong cuốn “Thiên địa tượng hợp đạo luân”(*) của Lư Đại Hiển người đời Tống
cũng viết: “Thất tinh cán gáo chỉ về đông, thiên hạ vào xuân; cán gáo chỉ về
nam, thiên hạ vào hè; cán gáo chỉ về tây, thiên hạ vào thu; cán gáo chỉ về
bắc, thiên hạ vào đông. Viên Thiên Cương nói là “thay đổi”, tức là cán gáo đổi
hướng chứ không đổi hình”.
(*) Tác giả Lô Đại Hiển người đời Tống, tinh thông thiên văn địa lý, là danh
sĩ một thời. Sau nhìn thấu hồng trần nhiễu nhương, đã ẩn cư nơi rừng núi. Đây
là cuốn sách tổng hợp và phân tích về các hiện tượng thiên văn địa lý, có tính
khoa học rất cao. Vẫn còn bản tàn khuyết từ đời Tống được bảo tồn tới tận ngày
nay.
Trong lý luận của người xưa đều nói cán gáo của Thất tinh thay đổi chỉ là đổi
hướng. Thế nhưng khi ứng dụng vào trong khảm diện, chắc chắn sẽ không đơn giản
như vậy. Một nơi như thế này hoàn toàn có khả năng biến tất cả những thứ không
thể thành có thể.
Con đường Tấc gang ngàn dặm cũng vậy, trong đó có hai điểm kết nút có thể tiến
hành thay đổi, đó là chậu thả sen ở vị trí sao Thiên Cơ và tảng đá Thái Hồ ở
vị trí sao Ngọc Hành. Tất cả hoa cỏ, cây cối, tường gai trong khảm diện này
đều được trồng xuống đất, không thể thay đổi vị trí, chỉ có chậu thả sen và đá
Thái Hồ là được sắp đặt vào trong, chúng có thể thay đổi vị trí dễ dàng. Đây
là một nguyên lý đơn giản, khảm tử gia nhìn ra được, đương nhiên Lỗ Ân cũng
nhìn ra được. Khảm diện đã dùng hai thứ này làm nút sống, như vậy cán gáo Thất
tinh không những có thể đổi hướng, mà còn có thể thay đổi vị trí sao và hình
dáng của cán gáo.
May sao chỗ khiếm khuyết mà ông phát hiện ra lại chính là điểm phá diện(*)
trong tầm nhìn của đối phương, đồng thời điểm phá diện này lại nằm đúng vị trí
che khuất bởi chậu lá sen ở vị trí Thiên Cơ, đá Thái Hồ ở vị trí Ngọc Hành và
bức tường cây gai ở vị trí Thiên Quyền.
(*) Tức là vị trí mà tầm nhìn của người điều khiển không nhìn thấy được.
Thế là Lỗ Ân lại giở chiêu lưu manh. Ông giả vờ ngất xỉu, ngã vật xuống góc
khuất giữa chậu sen và bức tường gai. Ông không dám chắc đối phương có mất
kiên nhẫn hay không, nhưng hiện giờ, đây là phương pháp duy nhất, ông nhất
định phải thử.
Gã áo đen cuối cùng đã xuất hiện, chạy theo lối đi trong khảm diện đến bên
chậu thả sen. Mọi động tĩnh Lỗ Ân đều nhìn thấy rõ, đó là nhờ thanh đao ông đã
cắm trên mặt đất trước khi ngã xuống, một thanh đao xanh thẫm với phần lưỡi
sáng loáng như gương.
Từ con đường mà gã áo đen đi tới, ông đã nhận ra vị trí của sao Đệ Đảm trong
chòm Nhị Đảm. Căn lầu và hành lang là vị trí của hai sao Miên Hoa Đảm; khóm
hoa mà bóng đen vừa chui ra chính là vị trí của “người em” đang gồng gánh.
Đã biết được vị trí của sao Đệ Đảm, chỉ cần tìm ra tiếp vị trí của sao Ca Đảm
là có thể kết hợp với Thất tinh để tìm ra điểm nút, lần ra lỗ hổng, sau đó
tiếp tục tìm ra chỗ không rồi phá vỡ. Lúc đó cho dù khảm diện có biến hóa
không ngừng, vẫn có thể tìm ra được quy luật.
Lúc này, gã áo đen đột nhiên chạy đến xoay chuyển chậu sen. Lỗ Ân ngoảnh đầu
lại nhìn tảng đá Thái Hồ vẫn đứng im lìm, ông đã hiểu ra, cuối cùng thì ông
cũng đã ngộ ra tất cả. Trước tiên, ông không cần thiết phải mất công đi tìm bố
cục sao Ca Đảm trong chòm Nhị Đảm nữa. Vì vốn dĩ không hề có sao Ca Đảm, sao
Ca Đảm chính là sao Đệ Đảm, mà sao Đệ Đảm cũng chính là sao Ca Đảm. Đây là bố
cục xếp chồng lên nhau, trong đó điểm khảm nằm ngay tại vị trí chậu thả sen và
đá Thái Hồ. Nếu như không phải đối phương muốn dùng sức người để chuyển động
chậu thả sen để thay đổi bố cục khảm, thì chậu thả sen và đá Thái Hồ có lẽ sẽ
đồng thời chuyển động.
Đây gọi là “Thiên Cơ, Ngọc Hành giao hoán, cán gáo đảo chỗ treo ngược”, tức
phần gáo của chòm sao Bắc Đẩu có thể biến thành phần cán, và phần cán cũng có
thể biến thành gáo, sau đó một đầu nối liền với bố cục hai sao Nhị Đảm đã
chồng thành một điểm. Cùng với sự biến đổi cán giáo, chòm Nhị Đảm cũng có thể
hoán đổi vị trí giữa Ca Đảm và Đệ Đảm, các sao Thạch Đầu Đảm và Miên Hoa Đảm
cũng liên tục âm thầm hoán đổi vị trí cho nhau.
Khảm diện của đối phương có khiếm khuyết, hơn nữa, về mặt con người cũng đã
phạm phải sai lầm rất lớn. Lẽ ra họ không nên hiếu kỳ và thiếu kiên nhẫn như
vậy, lại càng không nên tùy tiện động tới nút lấy. Nhưng điều đó đều cho thấy
bọn chúng còn thiếu hụt kinh nghiệm giang hồ. Sau khi đã xoay chuyển chậu lá
sen, gã kia cũng không nên đối kháng với Lỗ Ân. Đá Thái Hồ và chậu lá sen là
hai nút chốt của khảm diện, nếu chỉ động một cái, hơn nữa, nếu chỉ biến đổi
sang một khảm tướng, chắc chắn sẽ khiến cho khảm diện xuất hiện lỗ hổng. Còn
nếu như tiếp tục tác động lực thuận hướng, đẩy chậu sen theo đà cơ quát và sức
đẩy của Lỗ Ân, khiến chậu hoa sen trượt đi nhanh hơn, chạy thẳng sang khảm
tướng thứ ba, thì khi đó toàn bộ bố cục khảm diện sẽ đảo loạn hoàn toàn, khiến
Lỗ Ân càng không thể lần ra cách thoát thân. Đây là một sai lầm do thiếu kinh
nghiệm thực tế.
Trong giang hồ, chỉ một sai lầm nhỏ bé rất có thể sẽ đem lại thất bại vĩnh
viễn, huống hồ liên tiếp phạm phải hàng loạt sai lầm nghiêm trọng.
Lúc này, chậu lá sen chỉ cần tiếp tục chuyển động thêm ba mươi độ nữa là tiến
sang khảm tướng thứ hai. Gã áo đen cao nghều đang cố gắng ngăn cản trong vô
vọng, giờ đây đã phơi ra chỗ hổng của nút lẫy. Đao, thanh đao sống dày màu
xanh đen vẫn dựng đứng trên mặt đất, loang loáng hàn quang. Lỗ Ân đưa chân
trái khéo léo khều mạnh vào gờ che tay trên chuôi đao, một vệt sáng lạnh lõe
vụt khỏi mặt đất, góc độ và phương hướng đều rất chính xác, bay thẳng vào tay
trái của Lỗ Ân. Đối phương đã quá sơ suất, vệt hàn quang chứa đầy sát khí xẹt
qua ngay trước mặt mà vẫn không phát hiện ra, chỉ biết cật lực ngửa họng lên
trời, ngả người về sau, dốc hết sức bình sinh giữ chặt lấy cái chậu. Lỗ Ân
buông cánh tay trái đang nắm lấy mép chậu ra, thanh dao cứ tựa như tự nhảy vào
trong tay ông.
Thanh đao sắc bén dị thường, mũi đao xuyên vào cơ thể nhẹ nhàng như không.
Người đâm thảnh thơi, người bị đâm cũng rất nhẹ nhõm. Trong khoảnh khắc, kẻ
sắp mất đi tính mạng kia bất chợt ngộ ra toàn bộ những sai lầm đã phạm. Bởi
vậy, khi thanh đao nhẹ nhàng chạy ra khỏi cơ thể, gã chỉ cúi nhìn khe hở đang
phun trào máu đỏ trong thoáng chốc, rồi nhẹ nhàng khép đôi mắt lại.
Kỳ thực, phong phá có nghĩa là mau chóng khôi phục là điểm sơ hở của khảm
diện. Tuyệt lộ là cắt đứt đường tiến, tuyệt đối không được để đối thủ tiếp tục
tiến về phía trước. Diệt thiểm tức là lấy mạng hắn ta. Những người ẩn trong
vườn nghe thấy ám hiệu, lập tức hành động. Họ đều hiểu rằng bằng mọi giá phải
thực hiện mệnh lệnh này, nếu không bọn họ sẽ phải trả cái giá còn đắt hơn cả
cái chết.
Tay trái của Lỗ Ân nhẹ nhàng đẩy chậu lá sen chuyển động tới khe hãm của khảm
tướng thứ hai, rồi xách đao bước qua cái xác đang nằm dài trên lỗ hổng. Nhưng
vừa bước ra, ông đã phát hiện phía trước mặt có hai kẻ đứng sừng sững cách đó
chừng mươi bước. Ông không biết hai kẻ này từ đâu chui ra, nhưng tư thế của
chúng giống hệt nhau, trông vô cùng quái dị. Chúng đứng nghiêng nghiêng, một
cánh tay chỉ xéo lên trời, tay còn lại buông chếch xuống dưới, trong tay không
thấy binh khí, cơ thể được bọc kín mít trong một lớp áo đen dầy cộp
Bọn chúng không cần tới vũ khí, vì bản thân bọn chúng chính là vũ khí. Một
thiết huyết đao khách đã kinh qua vô số trận huyết chiến nhe Lỗ Ân, lúc này
không chỉ đánh hơi được sát khí, mà còn cảm nhận thấy một luồng khí sắc bén
tỏa ra từ hai kẻ áo đen.
Lỗ Ân không hề thủ thế, chẳng nói chẳng rằng, thình lình vung đao xông thẳng
đến.
Bởi vì ông phát hiện phía sau có người đang di chuyển khối đá Thái Hồ, có
nghĩa là có thêm một kẻ đang từ một lỗ hổng khác của khảm diện chuẩn bị xông
tới giáp công. Vì vậy, ông phải tranh thủ thời gian tốc chiến tốc thắng, trước
tiên hãy giải quyết bọn cản đường, sau đó xông lên. Mặt khác, ông đã quen tấn
công mà không cần đến thủ thế hay chuẩn bị. Từ khi trở thành huyết đao khách,
ông đã vứt bỏ hoàn toàn những chiêu trò thừa thãi, chỉ dùng phương pháp trực
tiếp nhất để đoạt mạng kẻ địch.
Đòn tấn công đột ngột và trực diện nhường đấy khiến đối phương không khỏi bất
ngờ, nhưng điều khiến chúng bất ngờ hơn cả là khi Lỗ Ân còn cách họ tới mấy
bước đã vung đao chém tới. Đòn chém này chỉ có thể chém vào không khí, chẳng
có chút nghĩa lý gì.
Nhưng đao vừa chém xuống, một nửa cần cổ của một trong hai gã áo đen đã đứt
rời, máu phun tung tóe thành tia tựa như một chiếc quạt giấy lớn mở xòe, quạt
mạnh lên vạt lá úa rụng buổi tàn đông.
Thanh đao trên tay Lỗ Ân đã chém đi, đã rời khỏi lòng bàn tay ông, bay vụt về
phía trước.
Đây chẳng phải là chiêu thức kỳ dị gì, mà chỉ là một chiêu thức trong công phu
Lục hợp của nhà họ Lỗ. Trong công phu Cố lương có một kỹ pháp quăng rìu, không
bị giới hạn bởi thể loại công phu, chỉ cần là người trong nhà họ Lỗ đều có thể
học được. Vì trong công phu Lục hợp của Lỗ gia, những chiêu thức mang tính sát
phạt chiến đấu quá ít ỏi, nên chiêu này ít nhiều cũng được xem là một chiêu
tấn công đoạt mạng.
Tương truyền một năm nọ, tại quê hương của Lỗ Ban là thành Đằng Châu, các đệ
tử Ban môn nhận nhiệm vụ xây dựng một công trình cho triều đình là điện Đại
Thành trong Văn Miếu. Khi hoàn thành và nghiệm thu, tổng giám công phát hiện
tại góc phía đông bắc của điện có một thanh dầm nhô ra chừng nửa tấc. Mặc dù
đây chỉ là một sai sót rất nhỏ, nhưng có thể dẫn đến nguy cơ mất đầu như chơi!
Đúng vào lúc mọi người không biết xử lý thế nào, thì một ông lão râu tóc bạc
trắng rẽ đám đông đi ra. Chỉ thấy ông vung cánh tay phải, “vù” một tiếng xé
gió, một lưỡi rìu bay vút đi, không lệch một ly, xẹt qua bên mái, vừa hay xén
đứt nửa tấc thừa ra của thanh dầm. Tất cả mọi người có mặt đều ngây người kinh
ngạc, đến khi định thần lại, đã không thấy bóng dáng ông lão đâu nữa. Các đệ
tử Ban môn đoán là có thần công, chắc hẳn tổ sư hiển linh, đến trợ giúp cháu
con tiêu trừ tai họa, cũng là truyền thụ kỹ nghệ cho đời sau. Bởi vậy, chiêu
thức phóng rìu liền được liệt kê vào trong công phu Cố lương.
Kỳ thực Lỗ Ân không mấy hào hứng với các công pháp trong công phu Lục hợp.
Điều này cũng khó trách, bắt một người nửa đời đao kiếm đi học kỹ nghệ của thợ
mộc, một là không có hứng thú, hai là khả năng tiếp thu cũng đã giảm. Vì vậy
với các kỹ pháp Cố lương ông học đại khái được chăng hay chớ, chỉ có chiêu
quăng rìu này ông cảm thấy còn giống chiêu thức võ công, nên đã khổ công tập
luyện. Hơn nữa, ông còn nghĩ cách chuyển hóa chiêu này sang đao pháp. Về sau,
kỹ thuật phi đao chém địch của ông còn thiện nghệ hơn cả phi rìu.
Trở lại chuyện chính, Lỗ Ân vừa vung đao chém tới, đã nhanh như chớp phóng vụt
đao đi. Chiêu này cũng chẳng khác gì so với cách thắt nút vào hạ bộ đối phương
khi nãy, đều mang ít nhiều bản sắc chợ búa vô lại của những nhân sĩ võ lâm
chính tông không bao giờ sử dụng. Mặc dù ông võ công cao cường, nhưng cũng chỉ
là một thị vệ, một lính quèn, vẫn chưa được coi là người võ lâm chân chính. Vì
vậy trong ý thức của ông, chiêu pháp tấn công chỉ cần có thể lấy mạng kẻ địch
đều được coi là cao chiêu.
Nhưng trong khu vườn này lại có nhân sĩ võ lâm chân chính, và không chỉ có một
người, ví dụ như hai kẻ áo đen sát khí đằng đằng nhuệ khí ngút trời đang đứng
trước mặt. Họ không chỉ là nhân sĩ võ lâm, mà còn có thể được coi là võ lâm
cao thủ. Nhưng cao thủ có lẽ chưa bao giờ nghĩ rằng trên đời lại có thứ cao
chiêu quái dị nhường này. Vì vậy một trong hai kẻ đành phải đưa cổ nhận đao,
bỏ mạng tại chỗ.
Chỉ còn lại một gã áo đen đứng lại trong tư thế quái dị ban đầu, trong mắt gã
không chỉ lộ rõ vẻ kinh ngạc, mà còn tràn đầy khiếp hãi, hoảng loạn. Thế nhưng
tất cả những điều này đều không khiến gã lui bước hay bỏ chạy như phản ứng của
người bình thường. Bây giờ, việc duy nhất mà gã có thể làm là tập trung toàn
bộ tâm lực và khí lực, xông lên phía trước. Thế tấn công nhanh như một tia
chớp đen ngòm, cơ thể lao vút đi như một mũi đao sắc lẹm, xuất chiêu cực nhanh
như mưa rào tạt nước. Tất cả những điều này đã chứng tỏ gã áo đen rất thông
minh, gã không biết Lỗ Ân sẽ tiếp tục tung ra những chiêu thức quái dị nào, vì
vậy đối sách tốt nhất của gã là khiến Lỗ Ân không tấc sắt không còn cơ hội ra
tay nữa…