Người đăng: lmknickmail@
Hơn hai mươi năm về trước, Lỗ Ân là một thiết huyết bảo tiêu trong nha môn
quan tuần phủ Chiết Giang. Lúc đó, đội ngũ Thiết huyết từ trên xuống dưới được
chia làm ba cấp, đó là đao khách, đao vệ và đao thủ. Lỗ Ân khi đó là một đao
khách cao cường. Ông vốn đã có công phu gia truyền, sau khi gia nhập đội ngũ
Thiết huyết, lại được rèn luyện đao pháp thực dụng nhất, hiệu quả nhất trong
chiến đấu thực tế, nên mọi chuyến bảo tiêu đều vượt qua hiểm nguy hoàn thành
nhiệm vụ.
Nhưng trong một lần, khi Lỗ Ân đến Phúc Kiến đón người nhà của quan tuần phủ,
trên đường đã bị cường đạo tập kích. Trong lúc giao chiến hỗn loạn, ông đã
đánh nhầm phải đại công tử đang cuống cuồng bỏ chạy. Sau khi đến Hàng Châu, do
vết thương quá nặng, đại công tử đã không qua khỏi, Lỗ Ân cũng khó thoát khỏi
tội chết.
Lúc đó, Lỗ Thịnh Nghĩa cũng vừa đến Hàng Châu bái kiến đại sư phong thủy Định
Vô Nghi. Nhận lời mời của quan tuần phủ, cả hai người đã đến dinh thự của ông
ta để xem xét phong thủy. Lỗ Thịnh Nghĩa nhận ra kiến trúc nhà ở của tuần phủ
có chỗ ác phá(*), và tìm được trên xà nóc của chính sảnh năm cây đinh quan tài
gỉ sét đã bị cưa mất đầu mũ. Đó chính là thứ đinh “ngũ độc tuyệt hậu”. Lỗ
Thịnh Nghĩa đã giảng giải cho quan tuần phủ về mức độ nguy hại ẩn tàng trong
đó, gán nguyên do cái chết của đại công tử cho chỗ ác phá này. Nhờ vậy Lỗ Ân
mới thoát khỏi tội chết, chỉ bị đuổi về quê.
(*) Trong Phong thủy học gọi những vị trí gây ảnh hưởng tới cách cục tổng thể
là “phá”. Có loại “phá” được hình thành tự nhiên, cũng có loại là do con người
tạo ra. “Ác phá’ ở đây là một thủ đoạn độc ác do con người tạo ra, cốt tình bố
trí những thứ gây phá hoại cách cục phong thủy và gia thế vận đạo của người
khác tại những vị trí xung yếu trong nhà của họ.
Lỗ Ân là một hán tử cương cường trọng nghĩa, cho rằng mạng sống của mình do Lỗ
Thịnh Nghĩa ban cho, nên đã đi theo Lỗ Thịnh Nghĩa từ đó. Ông ta cũng đổi sang
họ Lỗ, lấy một chữ “Ân” để làm tên, thể hiện tấm lòng biết ơn và trung thành
với Lỗ gia. Mặt khác, cũng đỡ mất công phiền hà giao nộp công văn đuổi về cho
quan phủ tại quê cũ.
Lỗ Thịnh Nghĩa và Lỗ Thiên Liễu bám sát sau lưng Lỗ Ân. Lỗ Thịnh Nghĩa luôn đi
trước Lỗ Thiên Liễu nửa bước, đó chính là thói quen của ông, ông cần phải đảm
bảo an toàn cho Lỗ Thiên Liễu. Thói quen này xuất phát từ tình yêu thương ông
dành cho cô, vốn dĩ cũng là lẽ đương nhiên. Nhưng nếu suy xét một cách sâu xa,
tại sao ông lại yêu thương cô đến thế, tự đáy lòng ông cũng cảm thấy rất khó
giải thích.
Với ông, Lỗ Nhất Khí và Lỗ Thiên Liễu đều là những báu vật do ông trời ban
tặng. Năm xưa khi ông và anh trai phá vách Bách anh dưới nước, đã trúng phải
lời nguyền tuyệt hậu. Lời nguyền còn chưa hóa giải, vậy mà ông trời đã ban cho
ông những hai đứa con bảo bối. Đứa con ruột Lỗ Nhất Khí chắc chắn là một bảo
bối, nhưng ông không dám giữ bên mình; còn đứa con gái mà ông nhặt được đây
cũng là một bảo bối, nhưng ông không thể rời xa.
Năm đó, sau khi gửi Lỗ Nhất Khí đi, ông Lục đã giúp ông tính toán quẻ Phục Hy.
Quẻ tượng nói rằng phía tây nam Mộc vương, sẽ xuất hiện kỳ tài, ngày sau không
chừng hữu dụng. Thế là ông một thân một mình lặn lội tìm kiếm khắp vùng tây
nam, nhưng không gặp được gì cả.
Một hôm, ông đến vùng Đại Lý, nhận lời của Vô Do pháp sư tại chùa Thiên Long,
đến giúp chùa điêu khắc một khám thờ bằng gỗ với chủ đề “Quan âm thuyết pháp
lánh phàm trần”. Khi nhắc đến nhành liễu cầm trên tay Quan Âm, ngoài cổng bỗng
xuất hiện một bé gái chừng năm sáu tuổi, áo quần rách rưới, mặt mũi lấm lem.
Đứa bé nhìn chằm chằm vào chiếc bát đựng mấy cái bánh mà Lỗ Thịnh Nghĩa chưa
kịp ăn đang để trên bàn rụt rè lên tiếng:
Lỗ Thịnh Nghĩa nghe vậy, trong lòng trào dâng một nỗi xót xa, bàn tay cầm dao
khẽ run rẩy, rạch hỏng cành liễu, cứa đứt cả ngón tay ông.
Một giọt máu hồng nhỏ trên cành liễu, hòa cùng một giọt nước mắt nóng hổi.
Lúc này, từ trong đại điện Phổ Tế, Vô Do đại sư đang tụng niệm Phật hiệu, bỗng
cất tiếng sang sảng mà nói vọng ra:
Và sau chuyến đi tây nam lần ấy, Lỗ Thịnh Nghĩa đã đưa theo về một cô con gái
nhỏ, đặt tên là Lỗ Thiên Liễu. Lúc đó, Lỗ Thiên Liễu không biết mình từ đâu
lưu lạc tới Đại Lý, cũng chẳng biết mình bao nhiêu tuổi. Lỗ Thịnh Nghĩa liền
coi như đứa bé bằng tuổi Lỗ Nhất Khí, ngày sinh cũng lấy cùng với sinh nhật
của Lỗ Nhất Khí.
Khi mới đi vào trong cổng, Lỗ Thiên Liễu bám sát theo sau Lỗ Thịnh Nghĩa,
nhưng sau đó cô dần dần tụt lại. Không phải cô không theo kịp, mà cô cố ý bước
chậm hơn. Vì cô còn phải vừa đi vừa tụ khí ngưng thần, giữ cho ba giác tỉnh
táo, để đến lúc quan trọng có thể ứng phó kịp thời.
Ba giác tỉnh táo là gì? Thính giác, khứu giác và xúc giác của Lỗ Thiên Liễu
đều nhạy bén khác thường. Cô chỉ cần ngưng thần tụ khí, tập trung tâm lực, ba
giác này lập tức có thể cảm nhận được những thứ cực kỳ vi tế như kiến bò cỏ
mọc, mùi khí vị đá, và đặc biệt rất nhạy cảm với những thứ ô uế quái dị. Chính
nhờ khả năng đặc biệt bẩm sinh, nên cô đã dễ dàng luyện được công phu Tịch
trần(*) của Lỗ gia.
(*) Tịch trần tức trừ bụi, có nghĩa là trừ bỏ những thứ ô uế. Kỹ thuật này
xuyên suốt trong toàn bộ quá trình xây dựng, do mỗi một khâu, hoặc vô tình
hoặc cố ý, đều có thể lưu lại chỗ phá bại, cần phải dùng phương pháp này để
trừ bỏ và bổ cứu. Đặc biệt là sau khi khánh thành, phải tiến hành vệ sinh quét
dọn tất cả mọi bộ phận của toàn bộ công trình kiến trúc. Cần phải dọn dẹp bụi
bặm và những thứ dơ bẩn, đồng thời cũng phải loại bỏ tất cả ám phá minh xung
gây phá hoại đến cát tướng phong thủy tổng thể. Vì vậy kỹ pháp này yêu cầu
người thực hiện phải thuần thục khinh công mới có thể lên xuống dễ dàng trong
toàn bộ công trình kiến trúc.
Cô ngộ tính rất cao, luyện công phu Tịch trần chẳng tốn bao nhiêu tâm lực. Về
sau, khi đã lớn lên, cô dần dần nhận thấy rằng, trong những thứ mà ba giác của
mình có thể cảm nhận được, không phải thứ nào cũng có thể giải quyết bằng Tịch
trần. Thế là cô cả ngày bám riết lấy ông Lục để học công phu Bố cát(*) và
Thiên sư pháp. Ở bên ông Lục lâu ngày, giờ cô nói tiếng Ngô còn thuần thục hơn
cả ông Lục.
(*) Tức là bố trí tốt lành, thực ra phương pháp này chính là xem phong thủy,
định vị trí. Nếu có thứ gì gây nguy hại cho cát tướng phong thủy hoặc bản thân
cách cụ có chỗ thiếu sót, có thể áp dụng một phương thức nhất định để bổ cứu.
Phương pháo này cần phải kết hợp kiến thức của Phong thủy học và kiến trúc
học. Trong toàn bộ quá trình xây nhà, tất cả những khâu cần phải dùng nghi
thức để đảm bảo cho sự may mắn tốt lành của cách cục phong thủy, cũng đều được
thực hiện bởi phương pháp Bố cát.
Ông Lục thời trẻ đã học Thiên sư pháp ở núi Long Hổ, mặc dù chỉ học được chút
ít, nhưng cũng đã đủ vốn liếng để đối phó với những thứ ma quỷ quái lặt vặt.
Nhưng Lỗ Thiên Liễu vẫn chưa hài lòng, cô thậm chí còn theo ông Lục lên tận
núi Long Hổ, nói là muốn học được Thiên sư pháp chính tông huyền diệu hơn nữa.
Ông Lục dẫn Lỗ Thiên Liễu lên núi Long Hổ, nhưng chỉ ở đó bảy ngày đã quay về.
Các vị đạo sĩ già phong thái tựa thần tiên ở núi Long Hổ đều rất quý mế Lỗ
Thiên Liễu, thế nhưng không ai chịu dạy Thiên sư pháp cho cô, mà chỉ giảng
giải chút ít về Bát quái Dịch số, Kỳ môn Độn giáp, và kể cho cô nghe một số
vật quái dị, việc ly kỳ khác. Họ đều cho rằng cô không cần phải học, vì cô đã
lờ mờ hiển hiện tướng “bích nhãn thanh đồng”(*). Đạo gia và Đông y đều cho
rằng “bích nhãn thanh đồng là thần tiên”. Vì vậy, chí ít Lỗ Thiên Liễu cũng là
nửa người nửa tiên, yêu ma quỷ quái nhìn thấy cô sẽ phải né tránh. Lỗ Thiên
Liễu lại cho rằng đó là cái cớ để các lão đạo sĩ từ chối truyền dạy tuyệt kỹ
cho mình. Nhưng nghĩ lại mình cũng chỉ là một đứa con gái, quả thực không
thích hợp để học các thuật rước thần đuổi ma, nên cũng thôi không nài nỉ thêm
nữa.
(*) Có nghĩa là mắt biếc con ngươi xanh.
Nhà cửa vùng Giang Nam thường có bố cục khuất khúc quanh co, ẩn tổng thể trong
chi tiết. Rất nhiều viên lâm trạch viện lớn có bố cục chẳng khác nào một mê
cung. Nhà cửa xây theo phong cách này, khi bày khảm đặt nút, hay ám toán kẻ
đột nhập, thường sẽ nhắm vào người đầu tiên và cuối cùng để ra tay, chứ không
hướng mũi tấn công vào những người ở giữa. Vì đường lối bên trong rất ngắn,
liên tục rẽ ngoặt quanh co, che chắn khéo léo, người đi phía trước đã qua chỗ
ngoặt đến mấy bước, mà người sau chưa chắc đã bám theo kịp.
Người đi sau đến chỗ rẽ, phải quan sát kỹ mới biết được phía trước nên đi
đường nào. Đôi khi, mặc dù đã nhìn thấy người phía trước, nhưng con đường dưới
chân chưa chắc đã dấn được tới nơi, không chừng lại có ao nhỏ, cầu ngắn chắn
đường, phải đi vòng sang bên cạnh. Chỉ có người ở giữa mới có thể luôn phối
hợp được với hai phía trước sau, và trước mặt sau lưng cũng luôn có người hỗ
trợ che chắn. Vì vậy, Quan Ngũ Lang vốn định đi sau cùng, nhưng đã bị ông Lục
ngăn lại.
Ông biết rõ mặc dù Quan Ngũ Lang dũng mãnh kiên cường không màng sống chết,
nhưng anh ta quá thật thà, rất dễ mắc lừa. Nếu như để anh ta đi đoạn hậu, chỉ
cần hơi tụt lại phía sau, chắc chắn sẽ trúng bẫy.
Thế là Quan Ngũ Lang đi lên phía trước ông Lục. Anh ta đeo xéo cái gùi tròn
sau lưng, tay nắm chặt chuôi đao bằng sắt sống. Dẫu rằng Ngũ Lang là đệ tử của
Lỗ Ân, nhưng anh ta lại không biết đao pháp xuân thu. Điều này có liên quan
tới ngộ tính và thể trạng, cũng liên quan đến tính khí và nhân cách của anh
ta.
Ngũ Lang mới chín tuổi đã bắt đầu theo nghề kéo thuyền ở bên sông Vận Hà,
nhưng khi đó, sức ăn đã khỏe gấp đôi người trưởng thành, sợi dây kéo thuyền
sau lưng anh ta bao giờ cũng căng hơn tất cả những người khác. Ngũ Lang mồ côi
cha mẹ từ tấm bé, bẩm sinh sức khỏe hơn người, nhưng lại không phải là một
nhân tài luyện võ, vì bản tính quá chất phác, thiếu linh hoạt. Thế nhưng lại
rất thích hợp để luyện kỹ pháp Lập trụ(*) trong công phu Lục hợp của Lỗ gia.
(*) Bất kể loại kiến trúc nào, sau khi định cơ (định móng) trước tiên phải
dựng trụ cột chắc chắn cho những bộ phận chủ chốt, như vậy mới có thể tiến
hành những công đoạn xây dựng tiếp theo. Các kiến trúc thời cổ đại lại càng
coi trong công phu Lập trụ. Vị trí lập trụ thứ nhất phải ứng với phương vị
phong thủy được xác định trong khâu Bố cát và Định cơ. Sau đó căn cứ vào vị
trí, góc độ, khoảng cách giữa các điểm lập trụ để xác định độ lớn nhỏ và chất
liệu của cột trụ, từ đó mới tính toán được lượng vật liệu cần sử dụng cho toàn
bộ công trình kiến trúc. Đương nhiên, trong lập trụ quan trọng nhất là phải
chắc chắn.
Bình thường Quan Ngũ Lang rất mực cần cù chăm chỉ. Anh ta luôn nghĩ rằng có
thể vào được Lỗ gia đã là một phúc khí lớn lao, nên luôn cần mẫn tận tụy, gắng
làm thật tốt mọi việc được giao phó.
Lỗ Ân đã nhân theo con người anh ta mà cho luyện ngón phác đao, đồng thời
truyền thụ chiêu pháp Khuyên nhi đao (đao xoay tròn) biến hóa cực ít. Đao pháp
này trong giang hồ còn gọi là “toàn phong sát” (gió xoáy giết). Kỳ thực bản
thân Lỗ Ân cũng không thuần thục đao pháp này, vì thứ nhất nó cần đến nhiều
sức mạnh; thứ hai, đao thủ không được phép chóng mặt. Nhưng hai điểm này đều
rất phù hợp với Ngũ Lang. Không những anh ta bẩm sinh sức lực hơn người, sóng
gió đã quen, không hề biết thế nào là chóng mặt.
Ông Lục đi sau cùng, thần thái hết sức tự tin, giống như ông vẫn luôn tin
tưởng vào bản lĩnh của mình. Thế nhưng, xuất thân là một thầy phong thủy lang
thang phố chợ, bản lĩnh mà ông có được đều là những lý luận và phương thuật lạ
lùng, cũ rích. Những cao nhân thật sự cho rằng đó là kiến thức nửa mùa, người
ngoại đạo lại cảm thấy quá cổ lỗ vô dụng. Đặc biệt từ sau thời Dân quốc, nhiều
người đổ xô theo thuyết mệnh lý chòm sao của phương Tây, vì vậy càng chẳng có
mấy người chịu nghe ông. Thế nhưng trong cuộc đời, hẳn ai cũng có được một vài
tri kỷ. Đối với ông, tri kỷ thật sự chỉ có hai. Một trong hai người đó chính
là Lỗ Thịnh Nghĩa. Nhưng suy cho cùng, Lỗ Thịnh Nghĩa có vẻ giống như một
người anh em, một người thân thuộc của ông hơn là tri kỷ. Đặc biệt là trong
hơn hai mươi năm sống trong nhà họ Lỗ, ông thực sự đã coi đây là nhà của chính
mình. Còn người tri kỷ thứ hai, ông giấu kín tận đáy lòng, chưa bao giờ mở
miệng hé lộ với bất kỳ ai.
Các chiêu thức trong công phu Bố cát của nhà họ Lỗ rất trùng hợp với những
phương thuật mà ông Lục đã học được. Các kỹ pháp cần sử dụng cả trí lực và sự
khéo léo như tìm huyệt, chọn giờ, tàng bảo, cải tướng… trong thuật Bố cát đã
giúp ông có cơ hội để bộc lộ tài năng vốn có.
Ông Lục ở nhà họ Lỗ đã nhiều năm, tất cả mọi người đều kính trọng ông, coi ông
như người thầy, người thân thích. Ở đây, ông đã tìm lại được niềm vui và tình
cảm mà lâu lắm rồi ông không có được. Với ông, một nửa là ơn tri ngộ, còn một
nửa là tình thân, tình bằng hữu.
Trước khi bước vào cổng sau, ông đã kịp lấy bàn Độn giáp trong người ra xem
thử, thấy cửu tinh chủ về sao Thiên Vệ, hợp với báo thù giải oan, ban ơn kết
bạn. Bát môn là Kinh môn, hợp với bắt giữ trộm cướp, kiện tụng, mưu kế, tạo
nghi ngờ. Ông không biết xét về mặt tướng số là Lỗ gia có lợi hay đối phương
có lợi. Lời phán đoán có chút mâu thuẫn, cùng giống như mâu thuẫn đang ngấm
ngầm khởi dậy trong lòng ông lúc này.
Khi ông Lục bước vào cổng sau, chỉ nhìn thấy ba người, Lỗ Ân đi đầu đã rẽ
ngoặt về hành lang phía trước. Khi ông đến chỗ tiếp nối giữa mái hiên với hành
lang phía trước, chỉ còn thấy Lỗ Ân và Lỗ Thịnh Nghĩa đang đi về phía bờ ao ở
cách đó khá xa, mà không thấy bóng dáng Liễu Nhi và Ngũ Lang đâu nữa. Ông cũng
không mấy bận tâm, vì rất có thể giữa ông và Lỗ Thịnh Nghĩa còn có một đoạn
khuất khúc, phải ngoặt thêm một vài chỗ nữa mới có thể nhìn thấy người.
Đúng lúc đó Lỗ Thịnh Nghĩa ngoảnh đầu lại, nhìn thấy ông Lục ở tận phía sau,
vẻ mặt đột nhiên biến sắc. Ông không nói gì, cũng không đi tiếp, mà đứng yên
tại chỗ, đợi ông Lục đuổi tới. Ông Lục đuổi kịp tới nơi, nét mặt cũng ngẫn ra.
Vì con đường ông vừa đi qua là đường thẳng, không hề có chỗ quanh co. Điều đó
có nghĩa là Lỗ Thiên Liễu và Quan Ngũ Lang đã đột ngột biến mất.
Ở những nơi như thế này, nếu có người thình lình biến mất một cách vô duyên vô
cớ, chỉ có một cách giải thích hợp lý duy nhất, đó là đã rơi vào cạm bẫy.
Nhưng điều khiến người ta không thể ngờ được khảm diện ở đây lại ra tay với
người chính giữa; hơn nữa, còn hốt mất hai con người sống hẳn hoi vừa mới sờ
sờ ngay trước mắt một cách âm thầm gọn ghẽ không một tiếng động. Khảm diện đó
rốt cục được bố trí theo kiểu gì? Thủ đoạn thật quá đỗi bất thường! Nhưng cho
dù là bình thường hay bất thường, chúng đã đạt hiệu quả như mong muốn trong sự
kinh ngạc sững sờ của đối thủ.
Lỗ Thịnh Nghĩa không nói lời nào. Trong ánh mắt ông, một niềm kiên nghị đã lấn
át mọi cảm xúc khác. Ông quả quyết quay người bước đi. Và lúc này, ông mới
phát hiện Lỗ Ân không hề dừng lại. Ông ta đã rẽ vào con đường nhỏ lát đá trứng
ngỗng rợp bóng hoa che, và mất hút phía sau một hòn non bộ.
Lỗ Ân không hề quay đầu lại, ông tập trung toàn bộ sức chú ý vào con đường
phía trước, không hề để ý đến phía sau. Cũng không trách được ông, vì nhiệm vụ
của ông là đi trước mở đường. Hơn nữa, đi sau ông còn có mấy người bản lĩnh
cao cường, nên ông cũng không cần thiết phải phân tâm.
Sau hòn non bộ có mấy cái gốc cây cao lớn, khiến cả một góc vườn trở nên âm u
khác thường. Con đường nhỏ liên tục xuất hiện những đoạn bậc thang dẫn xuống
phía dưới. Lỗ Ân thận trọng men theo, đến trước một căn lầu nhỏ bên cạnh ao
nước. Căn lầu quả thực rất nhỏ, lầu trên lầu dưới đều chỉ có duy nhất một
phòng, mặt tường quay về phía ao nước của cả hai tầng lầu đều lượn hình vòng
cung. Tại tầng dưới, chỗ nhìn ra ao nước có một thềm đá bằng phẳng rộng chừng
một hai trượng vuông chìa ra ngoài mặt nước. Mái lầu có đầu đao nhô lên cao
vút, mái giữa hai tầng lầu cũng có đầu đao uốn cong. Dưới hai mái đều có treo
hoành phi, bức phía trên viết “Gác Quan Minh”, bức dưới viết “Đài Hý Liên”.
Lỗ Ân dừng lại trước căn lầu, ông vẫn không quay đầu lại. Thật kỳ lạ, chẳng lẽ
một vị thiết huyết đao khách lừng lẫy một thời, giờ nay ngay cả việc người sau
lưng không đi theo kịp cũng không phát hiện ra hay sao?
Đúng vậy, ông không phát hiện ra. Vì trực giác đã mách bảo ông rằng, phía sau
ông vẫn luôn có người bám sát. Mặc dù sau khi vào cổng, họ bước đi hết sức nhẹ
nhàng, không phát ra một tiếng động, nhưng tất cả mọi hơi hướng động tĩnh dù
nhỏ nhất cũng không thể lọt khỏi đôi tai tinh tường của Lỗ Ân. Vì thế mà ông
biết, từ lúc bước vào cổng cho đến giờ, bước đi và động tác của người phía sau
vẫn không hề thay đổi, mức độ nặng nhẹ cũng rất đồng đều. Và điểm quan trọng
nhất chính là bước chân và động tác đó vô cùng quen thuộc với ông.
Lỗ Ân lại tiến thêm mấy bước về phía căn lầu, đến bên cạnh một gốc cây lớn ven
bờ ao. Từ vị trí này, có thể nhìn xuyên qua chấn song hoa của cửa sổ tầng một,
quan sát được mọi thứ bên trong. Căn lầu tuy nhỏ nhưng bài trí rất tinh tế.
Bên trong có một bộ bàn ghế bằng gỗ gụ chạm hoa quét nhựa sơn, hai bên là
chiếc trường kỷ bằng gỗ gụ kê sát tường. Ba mặt của căn phòng đều có cửa sổ.
Tại mặt tường hướng về phía ao nước, ngoài cửa sổ còn có thêm một cánh cửa nhỏ
tám ô khảm kính. Bước qua cánh cửa này, có thể đi xuống được thềm đá chia ra
mặt nước. Cửa sổ tầng dưới và tầng trên đều khảm nhiều ô kính sặc sỡ đủ màu,
nhà bình thường ít khi có kiểu cách xa hoa như vậy.
Các ô cửa sổ và cửa chính đều không đóng chặt. Một đợt gió lạnh từ mặt ao thổi
tới, khiến những cánh cửa sổ rung lên khe khẽ. Các ô kính đủ màu cũng lấp
loáng theo nhịp cửa rung.
Lỗ Ân đưa ánh mắt quét qua những ô kính màu, một luồng khí lạnh buốt bỗng chạy
dọc sống lưng, toàn thân lông dựng đứng. Ông ngỡ rằng mình đã nhìn nhầm, nên
lại đưa mắt nhìn thêm một lượt nữa. Kết quả khiến ông vô cùng kinh sợ, ông bèn
dấn thêm vài bước về phía trước. Tiếng bước chân phía sau cũng lập tức bám
theo, khoảng cách còn gần hơn so với ban nãy.
Lỗ Ân cảm thấy sống lưng căng thẳng, mồ hôi lạnh túa ra từ chân tóc, như một
con sâu bò ngoằn ngoèo vào tận trong gáy.
Hình ảnh phản chiếu trên ô cửa kính đã phủ định thính giác của Lỗ Ân: sau lưng
ông không hề có một ai!
Trong lòng Lỗ Ân khởi lên một nổi sợ hãi mơ hồ. Ông từng là một đao khách khét
tiếng, biết bao sinh linh đã trở thành hồn ma dưới lưỡi đao của ông, nên ông
không tin, cũng không sợ những thứ âm tà quỷ quái, huống chi là lúc này đang
giữa thanh thiên bạch nhật.
Ông đã từng nhìn thấy ma, đó là ở trong một ngôi nhà hoang bên cạnh Thái Hồ.
Khi đó, ông Lục hết thắp hương lại niệm chú, hết vẽ bùa lại vẩy rượu, cuối
cùng cũng lôi ra được một hũ xương người dưới bậc tam cấp của gian nhà chính.
Đó chính là “con ma” duy nhất mà ông từng thấy. Nếu ông Lục chịu nói sớm vị
trí của điểm huyệt, ông chỉ đào vài nhát là lôi được cái hũ lên, lấy ra bảo
bối trấn trạch ở phía dưới là xong chuyện, việc gì phải phí sức vẽ vời như
thế.
Nếu đã không tin có ma quỷ, tại sao bây giờ ông lại cảm thấy sợ? Đó là vì ông
tin rằng sau lưng ông thực sự có người, một người hoàn toàn có thể lấy mạng
ông.
Nỗi sợ hãi đã thúc đẩy ông bước tiếp về phía trước, ông muốn nới rộng khoảng
cách với kẻ đang bám theo phía sau, ông muốn tìm ra một vị trí có lợi cho
mình.
Tiếng bước chân ở phía sau vẫn bám sát theo ông, khoảng cách cũng mỗi lúc một
gần hơn.
Đột nhiên Lỗ Ân nhận ra điều gì đó. Thân thủ và bộ pháp của người phía sau quả
thực vô cùng quen thuộc, quen thuộc đến mức giông hệt bản thân ông.
Hai mí mắt của Lỗ Ân bỗng dựng ngược lên. Không sai, đó chính là thân thủ bộ
pháp của chính ông. Tại sao sau lưng ông lại có một Lỗ Ân nào khác bám theo
nữa?
Lỗ Thịnh Nghĩa vòng qua hòn non bộ. Ông không nhìn thấy Lỗ Ân, chỉ thấy một
con đường nhỏ khuất dưới bóng hoa lượn vòng vào một miệng hang đá dưới chân
hòn non bộ. Miệng hang đá không cao, người lớn phải cúi thấp đầu mới có thể
chui vào được. Đường dẫn vào hang cũng rất hẹp, chỉ đủ một người lọt qua.
Lỗ Thịnh Nghĩa là một cao thủ về kiến trúc xây dựng. Ông biết nhà cửa ở Tô
Châu đều rất chú trọng cách thức bày đá dẫn nước, đá và nước phản chiếu lẫn
nhau, cùng tạo thành chủ điểm trong bố cục viên lâm. Khoan chưa nói tới nước,
hãy xem hòn non bộ kỳ dị này trước. Tô Châu ở sát Thái Hồ, đá Thái Hồ vốn hình
thụ kỳ dị, sinh động nhiều thế, thường được dựng giữa sân để thưởng ngoạn. Từ
đời Tống trở về sau, phát triển thành cách xếp đá tạo núi. Đá vốn dĩ đã có
hình thù kỳ quái, xếp chồng thành núi cũng phải thuận ứng theo cái thế khúc
khuỷu tính xảo của đá tự nhiên. Bởi vậy cửa hang tuy thấp nhỏ, lối vào chật
hẹp, nhưng sau khi vào trong, bước thêm vài bước, có lẽ sẽ là một cảnh tượng
khác hẳn.
Nhưng Lỗ Thịnh Nghĩa cũng không khỏi băn khoăn, tại sao Lỗ Ân không đợi ông đã
vội đi vào? Một hang đá giả sơn như thế này, cho dù không khảm không nút, chỉ
nhờ vào tạo hình của đá và những lỗ hổng muôn hình vạn trạng đã đủ để trở
thành một nơi ẩn nấp lý tưởng cho những kẻ tập kích.
Lỗ Thịnh Nghĩa nâng chiếc hòm gỗ lên, che chắn trước ngực, tay còn lại nắm
chắc con dao khắc lưỡi rộng, hơi gập hai gối, xoạc rộng chân theo thế cung bộ
nhỏ, từ từ tiến vào trong hang. Ông dùng bộ pháp này để hạ thấp thân người mà
không cần phải cúi đầu, đồng thời mở rộng khoảng cách giữa hai chân, một chân
cố gắng tiến thật xa về phía trước. Thế đi này trong “Độn giáp – Vô kế
thiên”(*) gọi là “thạch sùng bò ngược”, ưu điểm là nếu không may giẫm phải
khảm, nút, hay chạm lẫy lọt bẫy, thì cơ thể vẫn chưa di chuyển đến nơi, nên
chưa bị tổn thương đến chỗ hiểm, vẫn còn cơ hội thoát ra. Ngoài ra, nếu chẳng
may bị khảm diện khóa chặt, khi vạn bất đắc dĩ vẫn có thể học cách thạch sùng
đứt đuôi, tự cắt chân để bảo toàn tính mạng.
(*) Là trước tác của một tú tài cuối đời Minh, người Chiết Giang, không rõ tên
tuổi, chỉ biết tên hiệu là “Tuyên Lạc Sơn Nhân”. Thực chất những nội dung
trong sách không phải do ông viết ra, mà chỉ là thu thập chỉnh lý các phương
pháp vận dụng Kỳ môn Độn giáp từ thời cổ cho đến đương thời. Còn nội dung của
“Vô kế thiên” viết những phương pháp bỏ nhỏ giữ lớn, cách bỏ trốn để bảo toàn
tính mạng, thậm chí quay đầu phản kích trong những tình thế cấp bách không còn
kế gì có thể thi triển.
Lỗ Thịnh Nghĩa đã lọt thỏm vào trong lòn hang tối mịt, giống như bị nuốt chửng
bởi chiếc miệng há hốc của một con quái thủ khổng lồ.