Biến Động Lớn


Người đăng: PTQDung

Quyển I: Khởi nghĩa Hồng Bàng

Chương 15: Biến động lớn

Năm Kính Chỉ thứ 8, đời vua Thường Tông, Đại Hoa tấn công Phù Tang. Từ lâu Phù
Tang đã là cái gai trong mắt vua Thường Tông vì dân xứ ấy giỏi nghề đi biển,
hung hãn, đánh trên biển giỏi nên thường làm cướp biển đánh phá các thành phố
ven biển của Đại Hoa. Trước đây quân Đại Hoa có chống lại, nhưng bọn giặc Phù
Tang đánh trên biển rất khá, nên quân Đại Hoa thường hay bị thua.

Về sau, Đại Hoa đánh Cao Câu Ly, vua Cao Câu Ly vì giữ ngai vàng mà chịu làm
chư hầu và sai thủy quân Cao Câu Ly giúp Đại Hoa trong việc thủy chiến. Thủy
Sư Đô Đốc Cao Câu Ly - Lee Dae Si một chiến tướng đức cao vọng trọng và lão
luyện việc thủy chiến được cử đi.

Sau khi nghiên cứu kĩ về thủy quân Đại Hoa và Phù Tang, Lee Dae Si nhận thấy
sở dĩ Đại Hoa thất bại là vì tàu chiến của họ quá to, chở nhiều hỏa pháo, nên
không thể nhanh chóng tiếp cận đối phương. Đã vậy độ chính xác khi bắn hỏa
pháo trên tàu rất kém, khiến cho việc đánh phá tàu Phù Tang từ xa là rất khó
khăn. Trái lại hỏa lực của Phù Tang không mạnh, thuyền cũng không to, phòng độ
phòng ngự không cao, nhưng thuyền đi nhanh, cả khi ngược gió. Vì thế họ mà
muốn đánh thì có thể nhanh chóng áp vào khoảng cách hỏa pháo không thể hạ nòng
rồi tung quân lên tàu đánh xáp lá cà, tiêu diệt thuyền viên, còn nếu thấy nguy
thì nhảy xuống thuyền rồi rút chóng, tàu Đại Hoa không đuổi kịp.

Tình thế yêu cầu Lee Dae Si nhanh chóng cho đóng các thuyền có khả năng phòng
ngự trước các đợt tấn công xáp lá cà từ người Phù Tang, song hỏa lực cũng phải
mạnh để đánh chìm tàu chiến đối phương. Mất hơn một tháng nghiên cứu, Chiến
Hạm Mai Rùa hay tàu con rùa bản cải tiến đã ra đời.

Tàu chạy nhanh vừa dùng buồm vừa dùng tay chèo. Trên nóc tàu có những tấm bọc
thép và rải đinh để chặn không cho người Phù Tang nhảy lên, đồng thời rất
nhiều lỗ pháo đã bố trí dọc tàu.

Bằng những con tàu này, liên quân Đại Hoa và Cao Câu Ly nhanh chóng đánh bại
quân Phù Tang. Tuy nhiên, chiến thắng này phần lớn bị các tướng lĩnh người Hoa
cướp công. Và để tránh bị mang tiếng dựa hơi một tên tướng chư hầu, họ quyết
định tự chỉ huy một trận đánh lớn đánh thẳng vào cảng biển Okanaki của Phù
Tang.

Nhận thấy việc tấn công là hết sức mạo hiểm cũng như không chắc thắng, Lee Dae
Si kiên quyết phản đối làm bọn tướng người Hoa giận hết sức. Quân Phù Tang
cũng tìm cách vu hại khiến ông bị hạ ngục vì tội tư thông với địch. Sau khi
bắt giam người giỏi thủy chiến nhất trong đội, chúng dong thuyền đánh cảng
Okanaki và tại đây liên quân Đại Hoa- Cao Câu Ly đông hơn 10 000 lính với 400
thuyền chiến các loại bị đánh tan.

Thủy Sư Đô Đốc Đại Hoa- Chu Hữu Khang là em của nhà vua, liền quyết định chạy
tội bằng cách vu cho Lee Dae Si tội tư thông, bán tin cho địch. Tuy nhiên, các
tỳ tướng của Lee đã sớm biết tin, họ làm binh biến cứu ông ta ra khỏi nhà lao
và bỏ trốn theo vị chủ tướng cũ rất đông, hơn 2000 thủy binh với 20 tàu chiến
các loại. Sau sự kiện này, thủy quân Đại Hoa không còn người tài để chống lại
bọn cướp biển Phù Tang nữa, liên tục phải triệt thoái và để mặc cho các bến
cảng rơi vào tình trạng cướp bóc mỗi khi quân Phù Tang đến đánh.

Sự suy yếu của thủy binh cũng làm cho nhiều quốc gia, sắc dân đã, đang hoặc
sắp bị quân Đại Hoa tấn công có ý chí chống cự. Khởi đầu là liên quân du mục
phương bắc đánh thành Đồng Đại, tuy không thể chiếm được thành, nhưng cũng đã
cướp bóc rất nhiều lương thực và phụ nữ ở khu vực biên giới mà quân Đại Hoa
chịu chết không thể truy kích. Liền sau đó là người Bạch ở phương nam làm
loạn, Miêu Cương chống đối, Cao Câu Ly giảm cống vật,… buộc quân Đại Hoa phải
tăng cường thêm các cuộc chinh phạt.

Chỉ trong hai năm, tổng số cuộc chinh phạt mà Đại Hoa phát động đã lên đến 23
cuộc, quốc khố nhanh chóng chống rỗng, vua Thường Tông về già lại tham lam
hưởng thụ, xa xỉ dâm dật, khiến tình hình trong nước nhanh chóng có nhiều biến
động. Vốn là nơi bị đặt ách đô hộ nên Bách Việt như nhiều vùng khác: Miêu
Cương, Hồi Hột, Liêu Đông,… phải chịu các mức thuế vô lý ngày một tăng, thuế
bị chia ra làm nhiều mặt để lạm thu, yêu cầu tăng tiến cống lên mức vô lý, lao
dịch dân chúng quá nặng nhọc,... Tình hình này nhanh chóng khiến dân Bách Việt
phẫn uất.

Hai khu vực có loạn đầu tiên là vùng núi rừng tây bắc và biên giới giáp Ai
Lao, vì hai nơi đó còn tàn dư hai họ Triệu, Dương. Họ Triệu lúc này nhờ vào
quân Nam Chiếu và các tay thổ hào dân tộc nên đứng vững gót chân tại nơi núi
rừng Tuyên Thái, trong khi đó họ Dương tuy có Ai Lao ủng hộ, nhưng dân địa
phương lại bị Quân Doanh Tây Đô kìm chế, nên gần như chỉ có thể đóng tại vùng
biên giới Ai Lao- Bách Việt, căn cứ chính là núi Phục.

Dẫu vậy, trong cuộc chiến vây núi Phục do Giám Quân Thừa Đức chỉ huy, do được
Hoằng Hạo chỉ điểm, quân họ Dương phục kích giết chết Thừa Đức, thanh thế vang
dội khắp vùng. Trừ được Giám Quân Thừa Đức, Tổng Binh Hoằng Hạo nhanh chóng có
các cuộc thanh trừng lớn với tầng lớp tướng lĩnh của năm Quân Doanh để có thể
nắm quyền quyết định tối cao trên đất Bách Việt. Hành động này khiến quân đội
Đại Hoa mất đi khả năng thực chiến tác chiến trong thời gian tương đối dài,
giúp hai đội quân của họ Triệu và họ Dương có thời kì lớn mạnh nhanh chóng.

Trước tình hình này, ngay khi cuộc thanh trừng tạm đạt thành công, Hoằng Hạo
cho quân đánh các nhánh quân khởi nghĩa. Do nhiều lý do như thiếu quân lương,
trang bị kém, quân số bị áp đảo và quân Đại Hoa vốn còn mạnh, quân hai họ
Triệu- Dương không chịu nổi, đều phải rút về hoạt động tại các địa bàn ban
đầu.

Đang trên đà chiến thắng, định một hơi dẹp luôn các thế lực chống đối, giết gà
dọa khỉ và củng cố nền cai trị, tiến tới tự lập làm vương, thì Hoàng đế Đại
Hoa cử Giám Quân khác tới để giám sát y. Vốn định làm lại trò cũ, cho quân
khởi nghĩa giết Giám Quân, nhưng không may thay, kẻ tới lần này quá cáo nên đã
thoát nạn, Giám Quân về báo việc Hoằng Hạo định tự lập, khiến Thường Tôn giận
dữ, ra lệnh chuẩn bị binh lực đánh Hoằng Hạo. Chưa hết, vua Chiêm Thành Jayala
Sakhulanma IV, một vị vua trẻ tuổi và có tài thao lược quyết định tấn công vào
phần đất phương nam của Bách Việt.

Sức ép hai mặt ngày càng tăng nên Hoằng Hạo quyết định tráng sĩ chặt tay, ngày
24 tháng 10 năm Bính Tuất, Hoằng Hạo cho rút hết quân đồn trú, kể cả binh sĩ
người Việt tại Châu Nam Bình, đặc biệt là Huyện Hồng, nơi giáp ngay gần Chiêm
Thành về mạn bắc sông Thâu, con sông ngăn đôi Châu Nam Bình . Đồng thời cử sứ
giả tới điều đình để quân Chiêm chấp nhận lấy phần phía nam của Châu Nam Bình
và ngưng chiến dịch tấn công quân của Hoằng Hạo.

Tin tức này lan ra, người dân châu Nam Bình nói chung đều giận giữ, tuy nhiên
quê hương ở đây, họ không thể bỏ đi được, mà cũng không có được khả năng để
chống lại quân chính quy Chiêm Thành, nên đành chấp nhận. Các nhà giàu thì
cũng đang nghĩ cách làm thế nào kết thân được với người Chiêm để giữ yên gia
sản và tính mạng. Có người thì thấy bình thường, ai cai trị mà chả như nhau,
miễn sống được là được. Có người thì sợ hãi tìm cách đi lên mạn bắc. Có người
triệu tập gia đinh để phòng việc bất trắc.

Riêng với Anh Kiệt, điều cậu làm là nhanh chóng chỉ huy cho dân quân xây xong
đống công sự này. Họ Bùi cho biết sở dĩ vua Chiêm Thành đánh Bách Việt là vì
Chiêm Thành đang mất mùa và lại bị Chân Lạp quấy nhiễu, họ cần lương thực để
ổn định tình hình trong nước. Vì thế, dù dân ngoan ngoãn hay cố tình chống
đối, lính Chiêm Thành vẫn cứ ra tay cướp hết.

Từ tháng tư năm nay, tức là 6 tháng trước, khi biết về sự mất mùa của Chiêm
Thành, Kiệt một mặt thông qua họ Bùi để bán thóc gạo cho người Chiêm lấy tiền,
dùng tiền mua thêm vũ khí. Một mặt, cậu cho tăng gia sản xuất, chuẩn bị thóc
gạo, lương thực, rau, thịt, cá khô với số lượng lớn.

Số vũ khí mua được vẫn là vũ khí lạnh: tên, nỏ, đao, kiếm, giáo.., dùng cho
những cuộc chiến phòng thủ. Công sự được làm rất chắc chắn, bao gồm hầm hào,
bẫy chông, rồi thì lô cốt đất đắp tạm. Đặc biệt là hai bên bờ sông được làm
những hàng lô cốt và chiến hào để quân trên bờ có thể ngăn chặn các cuộc đổ bộ
từ lính thủy quân Chiêm Thành.

Đến tháng chạp, quân Chiêm kéo vào, bắt đầu thẳng tay cướp bóc lương thực. Hễ
ai chịu nộp, chúng còn để yên, nếu không chúng giết cả nhà. Đã vậy, càng giàu
có, càng có sức ảnh hưởng như địa chủ, phú thương, quan lại về hưu chúng càng
làm dữ. Vua Chiêm cử quân sang đây cốt để mang lương thực về nước, nên không
để ý tới việc làm thiện làm ác gì, cốt mang được lương thực về cứu dân khỏi
đói là ông ta vui.

Cướp từ hết các làng mạc đồng bằng, chúng kéo lên nơi hẻo lánh để cướp, vì
lương thực cướp được mới chỉ đáp ứng cứu đói tạm thời, còn phải chuẩn bị quân
lương để đối đầu Chân Lạp, quốc gia láng giếng, nên các vùng đồi núi, vùng sâu
vùng xa, hễ có người mách là quân Chiêm mò tới cướp phá.

Và làng Bàng cũng không tránh được chuyện đó. Lính Chiêm cưỡi thuyền, có
khoảng 40 tên, được sự chỉ điểm của hơn 10 người Bách Việt từng đi thuyền lên
đây mua cá, đã cập bến làng Bàng lúc giữa trưa.

Vừa vào làng, quân Chiêm hạch sách đòi thu sạch thóc gạo, dân làng Bàng lập
tức nhanh chóng giao ra. Vì làng đã có các tiểu khu ở đất người thượng cung
cấp thóc gạo, lại lường trước sự việc, nên gạo để lại không nhiều như lúc
trước, cũng chỉ còn 1/ 20 lượng lương thực thường ngày, nhưng cũng đã là rất
nhiều nếu so với các làng khác.

Tuy rằng đã xác định phải đánh, nhưng hòa bao lâu tốt bấy lâu, làng Bàng đã
dùng kế thả con săn sắt, bắt con cá rô, lấy số lương thực ít ỏi này để đuổi
chúng về. Đáng lẽ nếu mấy tên quân Chiêm chịu về ngay lúc đó, có lẽ chúng cũng
đã có mẻ thu hoạch khá. Nhưng sau khi hỏi bọn chỉ điểm, biết trong làng thiếu
đi nhiều người, bọn chúng hạch sách đòi dân làng phải ra đủ cả để kiểm đếm xem
có giấu diếm đi nơi khác không.

Kết quả là dân làng đồng ý cho đợi. Chỉ một lúc sau, dân làng trốn hết vào
trong nhà, đóng chặt cửa, đồng thời dân binh mà vũ khí tràn vào giết sạch đám
lính Chiêm. Những kẻ nhanh chân chạy được ra ngoài làng thì cũng tuyệt vọng
khi thấy quân bao vây bên ngoài, đông tới cả ngàn người, thế là đành ngoan
ngoãn quỳ xuống đầu hàng.


Hồng Bàng Lập Quốc Ký Rewrite - Chương #15