Người đăng: 01679152178
Sáng sớm hôm sau, mặt trời vừa ló dạng, Bao đại nhân liền thăng
đường thẩm án.
“Uy vũ…”.
Trong công đường Khai Phong phủ, Tam ban nha dịch đứng thẳng tắp hai bên,
trống thăng đường dồn dập, uy phong lẫm lẫm, Bao đại nhân ngồi chính
giữa công đường, võ kinh đường mộc trong tay chát một tiếng, cao
giọng quát: “Giải huynh đệ Ngô thị lên!”.
“Giải huynh đệ Ngô thị lên…”, tiếng hô truyền gọi vang từng đợt ra bên
ngoài.
Lát sau, chợt nghe có tiếng gông xiềng, cùm châm va vào nhau lẻng
xẻng, hai sai dịch giải huynh đệ Ngô thị lên công đường.
Bao đại nhân nghiêm nghị ngồi phía trên, đưa mắt nhìn xuống phía dưới
công đường, chỉ thấy phía dưới có hai kẻ đang quỳ, vận áo tù nhân,
một vạm vỡ, một thấp lùn, kẻ cao to kia râu ria đen sì kéo đến tận
mang tai, giữa mi tâm ẩn hiện vẻ hung ác xiểm nịch; kẻ còn lại, thân
hình hơi lùn, hai mắt hấp háy, khuôn mặt mang vẻ kinh hoàng sợ hãi,
toàn thân run rẩy không ngừng.
“Quỳ dưới công đường là kẻ nào?”, Bao đại nhân nheo nheo mắt, trầm
giọng hỏi.
“Thảo… thảo dân là Ngô Nhị Cương”, kẻ thấp hơn run lẩy bẩy đáp.
“Thảo dân Ngô Đại Lực”, kẻ cao to cũng trả lời.
Chát!
Bao đại nhân bỗng vỗ mạnh kinh đường mộc, cao giọng quát: “Điêu dân to
gan, phạm trọng tội như thế, còn dám tự xưng là thảo dân?!”.
Ngô Nhị Cương bị dọa cho run như cầy sấy, vội khom lưng phủ phục
xuống, miệng lấp bắp nói: “Tội… tội dân Ngô… Ngô…”.
“Đại nhân!”, Ngô Đại Lực đột nhiên lên tiếng: “Không biết thảo dân
phạm tội gì, vì sao không thể tự xưng là thảo dân?”.
Bao đại nhân lạnh lùng trừng mắt nhìn, trầm giọng nói: “Hai huynh đệ
ngươi mưu đồ giết người cướp của, sát hại người qua đường là Lưu
Thế Xương, lại còn thêu đốt thân thể hắn làm thành ô bồn. Phường
hung ác tàn bạo như thế, sao có thể xứng đáng với hai chữ ‘thảo
dân’?”.
Ngô Nhị Cương nghe xong, toàn thân lại càng run rẩy dữ dội hơn.
Ngô Đại Lực tuy thân hình có chấn động đôi chút, nhưng sắc mặt vẫn y
như cũ, thâm trầm nói: “Đại nhân, oan cho thảo dân, thảo dân chưa bao
giờ giết người”.
Bao đại nhân trợn trừng hai mắt, lại quát lên: “Điêu dân to gan, ngươi
nhìn cho rõ đi, vật trên công đường là thứ gì?”.
Tiếng nói vừa dứt, nha dịch liền đem một bọc vải màu đen lên công
đường, mở túi lấy ra một cái ô bồn đen sì đặt xuống trước mặt hai
huynh đệ Ngô thị.
Ngô Nhị Cương vừa nhìn thấy ô bồn liền kinh hoàng biến sắc, huơ huơ
tay, sợ hãi kêu lên: “Đem… đem hắn đi đi, đừng… đừng mà…!”, dứt lời
liền nhào về phía cửa công đường định chạy trốn. Nhưng nha dịch hai
bên sao có thể để mặc hắn như thế, hai tay sát uy bổng nhất thời
vung ra, ghìm Ngô Nhị Cương quỳ nguyên tại chỗ. Ngô Nhị Cương chỉ có
thể run lẩy bẩy dưới sát uy bổng.
Ngô Đại Lực nhìn thấy ô bồn, vẻ kinh hoàng cũng hiện rõ trên mặt,
hơi co người lùi về phía sau, da mặt giật giật, một lúc lâu sau cũng
không phát ra được âm thanh nào.
Bao đại nhân quét mắt xuống công đường, nghiêm sắc mặt, đột nhiên cao
giọng: “Ngô Đại Lực, Ngô Nhị Cương, nay chứng cớ phạm tội vô cùng
xác thực, các ngươi còn không mau nhận tội?”.
Lời này như sấm động bên tai, sét đánh mái nhà, hai kẻ quỳ dưới
công đường giật mình run sợ.
“Tội… tội dân Ngô… Ngô…”, Ngô Nhị Cương vừa mới mở miệng, liền bị
tiếng hét mạnh mẽ của Ngô Đại Lực ngăn lại: “Đại nhân, ô bồn này
chẳng qua chỉ là vật bình thường chợ nào chẳng có, sao có thể
chứng minh thảo dân giết người?’.
Bao đại nhân hừ lạnh một tiếng, tầm mắt chuyển sang ô bồn, trầm
giọng hỏi: “Lưu Thế Xương, ngươi có biết hai kẻ trên công đường này
không?”.
Nhưng ô bồn dưới công đường lại im lặng dị thường.
Bao đại nhân kinh ngạc, giọng lại cao hơn mấy phần: “Lưu Thế Xương,
ngươi có nghe thấy bản phủ hỏi không?”.
Ô bồn vẫn không trả lời.
Bao đại nhân nhíu chặt hai hàng lông mày, đưa mắt về phía Công Tôn
tiên sinh đang ngồi sau mộc án dưới công đường, ánh mắt mang theo ý
hỏi.
Công Tôn tiên sinh cũng hơi ngẩn ra, khuôn mặt tỏ vẻ không giải thích
được, lắc lắc đầu, lại đưa mắt sang hộ vệ áo đỏ đối diện, nhưng
Triển Chiêu cũng nhíu chặt mày, sắc mặt nghi hoặc.
Cả ba người đều thầm thấy khó hiểu, còn Ngô Đại Lực lại vô cùng
sung sướng. Ngô Đại Lực vốn chỉ là ngoan cố kiên trì không chịu nhận
tội, thầm tính toán, nếu tội danh sát nhân khó tránh khỏi thì sẽ
đem mọi hành vi tội lỗi đổ hết lên đầu nhị đệ, Ngô Nhị Cương. Bản
thân hắn cũng từng nghe thấy ô bồn nói chuyện, lúc này rất sợ ô
bồn tự mình ra làm chứng, đang lúc lo lắng sợ hãi thì ô bồn lại im
lặng không có tiếng động, thầm suy xét một hồi, phỏng chừng ô bồn
nói chuyện lúc đó chẳng qua chỉ là thuật che mắt của nha dịch Khai
Phong phủ, không khỏi thầm mừng rỡ, cao giọng lên vài phần nói: “Đại
nhân, thảo dân chưa bao giờ giết người, mong đại nhân minh xét!”.
Bao đại nhân nhất thời không nói lời nào, cả công đường rơi vào im
lặng.
Mà lúc này ngoài công đường, một bóng người thập thò bên cửa đột
nhiên thẳng đứng thẳng, hối hả chạy về phía lục phòng[1], xông
thẳng vào phòng đầu tiên mé phía đông, người còn chưa dừng lại,
miệng đã hô lên: “Kim Kiền, không hay rồi, ô bồn lại không nói được
rồi!”.
[1] Lục phòng: là nơi làm việc của các nha dịch ở bên ngoài công
đường, khi đang thăng đường xử án, đây là một nơi họ đợi để phục
mệnh.
Một người đang lười nhác ngồi trên chiếc ghế gỗ, nhìn thấy người
chạy đến tựa hồ như chẳng có chút ngạc nhiên nào, chỉ giơ một ngón
tay lên, chỉ chỉ vào một góc tối tăm u ám trong góc phòng, bất đắc
dĩ nói: “Tiểu Lục ca, cái đó có gì đáng kinh ngạc, cậu nhìn sang
bên kia đi, sẽ rõ ngay thôi”.
Trịnh Tiểu Liễu nhìn theo hướng ngón tay chỉ, nhất thời cả kinh.
Trong góc tối tăm, một cái bóng màu trắng bồng bềnh khi ẩn khi
hiện, như sương như khói, mờ nhạt không rõ, nhưng vẫn lờ mờ nhìn ra
một bóng người.
“Lưu… Lưu Thế Xương?! Anh… anh sao vẫn còn ở đây? Anh đáng ra phải ở
trong ô bồn mới đúng chứ?”.
Cái bóng trắng trong góc kia khẽ khàng lay động, u uất nói: “Sát
khí của công đường quá nặng, tôi căn bản không có cách nào đi vào…”.
“Cái gì? Vậy… vậy phải làm thế nào? Không có anh làm chứng, những
chứng cứ khác vốn không có cơ sở xác thực, Bao đại nhân sẽ thẩm án
như thế nào?!”, Trịnh Tiểu Liễu kêu lên, khuôn mặt đầy vẻ lo lắng.
“Trừ phi không xử án ở trong công đường nữa, nếu không tôi căn bản
không có cách nào ra làm chứng…”, Lưu Thế Xương buông thõng tay đáp.
Trịnh Tiểu Liễu lắc đầu nói: “Thẩm án ngoài công đường, không hợp
pháp lý, thẩm chí còn không thể ghi vào trong hồ sơ, đương nhiên không
thể được”.
“Cái gì?”, Kim Kiền từ nãy đến giờ vẫn ung dung ngồi một bên, nghe
vậy liền nhảy dựng từ trên ghế xuống, kinh ngạc la lên: “Làm phiền
tôi? Lưu ô bồn, anh không phải là muốn mượn thân thể tôi nhập hồn
vào, rồi lên công đường làm chứng chứ?”. Bụng thì thầm nghĩ: Đùa
à, cái trò nhập hồn này không biết để lại những di chứng gì, mình
tuyệt đối không đồng ý!
Lưu Thế Xương nghe xong không khỏi sửng sốt, ngẩn ra một lúc mới nói:
“Kim tiểu ca nghĩ đi đâu vậy? Tôi chẳng qua là một oan hồn, nào có
năng lực nhập hồn chứ, mà cho dù có nhập hồn thì cũng không thể đi
vào công đường được”.
Kim Kiền nghe được những lời này mới yên tâm vài phần, nhãn cầu đảo
vài vòng, khẽ lui về phía sau một bước, lại hỏi: “Vậy anh muốn tôi
giúp gì?”.
Lưu Thế Xương bay là là giữa không trung, yếu ớt nói: “Tôi muốn phiền
cậu hãy giả làm tôi, lên công đường làm chứng”.
“Cái gì?”, Kim Kiền và Trịnh Tiểu Liễu cùng kêu lên.
Kim Kiền trợn tròn mắt, trừng trừng nhìn u hồn âm ảnh, da mặt có
chút giật giật nói: “Ý của lão huynh ngài là muốn tôi giả vờ bị
ngài nhập hồn, sau đó lên công đường với thân phận Lưu Thế Xương,
vạch trần tội lỗi của đôi huynh đệ kia?!”.
Lưu Thế Xương gật gật đầu.
“Có nhầm không đấy?! Không nói nữa!”, Kim Kiền lập tức hét to lên,
lòng thầm nhủ: Thế nào lại bắt mình, đường đường một người hiện
đại đi làm cái việc khai man mạo hiểm thế chứ, ngộ ngỡ bị vạch
trần thì chẳng là rước họa vào thân à?!”.
Trịnh Tiểu Liễu nghe thế liền lắc đầu như trống bỏi, cao giọng nói:
“Đương nhiên là không được, đây chính là làm chứng giả, vu tội trên
công đường!”.
Lưu Thế Xương thấy hai người trước mặt cực lực phản đối, nhất thời
cuống lên, cao giọng nói: “Hai vị tiểu ca, lẽ nào các vị định trơ
mắt nhìn huynh đệ Ngô thị kia nhởn nhơ ngoài vòng pháp luật sao?”.
Trịnh Tiểu Liễu nghe được những lời này, hơi cúi đầu xuống, khuôn
mặt lộ vẻ khó xử nói: “Nhưng, nếu chúng ta dùng cách này, cũng
không hợp pháp…”.
“Đúng, đúng, đúng, không hợp pháp!”, Kim Kiền cũng phụ họa theo,
lòng lại thầm nghĩ: Loại việc có chỉ số nguy hiểm cao thế này,
tuyệt đối không thể được!
Lưu Thế Xương thấy tình huống như vậy liền phủ phục xuống, dập đầu
liên tiếp: “Hai bị tiểu ca, nay Lưu Thế Xương lấy thân phận là oan hồn
khẩn cầu hai vị, cho dù thế nào cũng phải giúp tại hạ. Nếu oan
khiên của Lưu Thế Xương được rửa sạch, xin nguyện khắc cốt ghi xương
ân đức của hai vị, kiếp sau xin làm trâu làm ngựa để báo đền hai
vị”.
“Cái này…”, Trịnh Tiểu Liễu dù sao cũng còn nhỏ tuổi, lòng dạ yếu
mềm, thấy Lưu Thế Xương làm thế, nhất thời không có biện pháp gì,
đành quay sang nhìn Kim Kiền.
Nhưng Kim Kiền lại có vẻ cứng rắn không chút thỏa hiệp, sắc mặt
vẫn nghiêm nghị y như cũ, thấp giọng nói: “Lưu Thế Xương, chúng tôi
tuy cảm thông với cảnh ngộ của anh, nhưng những việc lừa dối làm
rối loạn kỷ cương pháp luật như thế này tôi không thể giúp anh
được!”.
Lưu Thế Xương nghe vậy liền ngừng dập đầu, từ từ thẳng người lên
nói với Trịnh Tiểu Liễu: “Trịnh tiểu ca, tôi có chuyện cần nói với
Kim tiểu ca, phiền cậu hãy tạm lánh đi một lát”.
Trịnh Tiểu Liễu có chút khó hiểu, nhưng thấy vẻ mặt nghiêm trang
cùng vẻ bi thiết của Lưu Thế Xương, lòng mềm đi, liền đi ra ngoài
phòng, đóng cửa lại. Ánh sáng trong phòng liền trở nên yếu ớt, mờ
ảo.
Lưu Thế Xương đột nhiên đứng dậy, vèo một cái bay tới bên cạnh Kim
Kiền.
Kim Kiền chỉ thấy một trận gió lạnh lướt qua tai, rồi nghe thấy
tiếng của Lưu Thế Xương hòa lẫn trong gió: “Kim Kiền, nếu cậu không
giúp tôi, bí mật của cậu cũng không giữ được!”.
Lưu Thế Xương lại nhỏ giọng, âm thanh mơ hồ nói: “Kim Kiền, cô là thân
nữ nhi…”.
Kim Kiền hít một ngụm khí lạnh, hai mắt trợn tròn cơ hồ như muốn
rách, nuốt nước bọt vài lần mới có thêm sức lực, nói: “Lưu ô bồn,
anh đừng nghĩ rằng mình là oan hồn thì có thể bịa đặt lung tung!”.
Lưu Thế Xương nghe vậy, lắc lắc đầu, lại yếu ớt nói: “Tôi đã sớm
không còn người trên dương gian nữa, phân biệt người dương thế không
phải bằng nhãn lực mà là dựa vào khí tức của thế nhân để phán
đoán. Nam tử thuần dương, nữ tử thuần âm, Kim Kiền cô cả người âm
khí bao trùm, tuyệt đối không phải là nam tử được”.
Kim Kiền vừa nghe, sức lực trong nháy mắt bi rút cạn, thầm nghĩ:
Xong rồi, không ngờ Lưu Thế Xương này lúc sống thì chẳng thấy thông
minh, đến khi chết rồi lại thêm vài phần bản lĩnh, để giờ đây bánh
bao rách vỏ… lòi hết mọi thứ ra rồi.
Chợt nghe Lưu Thế Xương ở bên cạnh nói tiếp: “Bản triều ta từ khi
khai quốc tới nay chưa từng có tiền lệ nữ tử làm nha dịch. Nếu
được Bao đại nhân biết được chuyện này, Kim Kiền cô…”.
Lời tuy chưa nói hết nhưng Kim Kiền đương nhiên hiểu hết, nhất thời
có chút dở khóc dở cười, thầm nghĩ: Dở hơi, nếu để Bao đại nhân
biết được giới tính của tôi thì cái chức nhân viên nhà nước trong
Khai Phong phủ này tôi cũng khỏi làm luôn rồi! Haizzz, không ngờ rằng
đường đường một người hiện đại lại lâm vào cảnh ngộ bị một hồn ma
thời cổ đại uy hiếp… Chậc, pháp luật Đại Tống tôn kính, xin lỗi
nha, hiện tại là bát cơm trước mắt, ấm no làm trọng, tôi cũng vì
tình thế bức bách mà thôi…
Lòng thầm hạ quyết tâm, Kim Kiền đột nhiên nặn ra một nụ cười toe
toét, xoa xoa hai tay nói với Lưu Thế Xương: “Chúng ta coi như cũng quen
biết nhau một thời gian, tục ngữ nói, ở nhà cậy cha, ra đường cậy
bạn, Lưu đại ca đã có lời nhờ vả, tôi tất sẽ rút đao tương trợ cả
hai tay, dốc toàn lực để giúp anh! Có gì cần sai bảo xin cứ nói”.
Lưu Thế Xương nghe vậy mừng rỡ vô cùng, vội nói: “Kim Kiền đã nguyện
ý giúp, vậy còn không mau lên công đường làm chứng vạch trừng tội
ác của huynh đệ Ngô thị kia?”.
Kim Kiền nghe xong, nụ cười trên mặt đông cứng lại, qua một lát mới
đáp: “Lão đại, ý của ngài là, muốn tôi cứ thế mà lên công đường
làm chứng sao?”.
Lưu Thế Xương không hiểu, hỏi: “Không cứ thế mà lên công đường thì
còn phải như thế nào nữa?”.
Kim Kiền thiếu chút nữa thì tức tới hộc máu, nghĩ bụng: Lạy hồn,
tôi cứ thế xông vào công đường tự nhận mình là Lưu Thế Xương, chuyện
hoang đường như thế, đừng nói là mấy kẻ đầu óc có sói như Khai
Phong phủ không tin, e rằng ngay đến đôi huynh đệ kia cũng chẳng thể
lừa nổi.
Nghĩ vậy, Kim Kiền chầm chậm đi quanh phòng, đưa tay xoa cằm, hồi lâu
sau mới lên tiếng: “Lưu đại ca, lúc huynh đệ Ngô thị kia giết anh, anh
còn nhớ được ít nhiều gì không?”.
Lưu Thế Xương nghe xong không khỏi sửng sốt, nghĩ một lát rồi đáp:
“Tôi nhớ bọn chúng dùng rìu giết chết tôi…”.
“Còn gì nữa không?”.
“Cái này… Đúng rồi, lúc Ngô Đại Lực giết tôi có nói một câu”.
Kim Kiền thấy vậy, hai mắt sáng lên, vội hỏi: “Câu gì?”.
Lưu Thế Xương lại ngẫm nghĩ một lát, đem câu cuối cùng nghe được
trước khi chết nói lại tường tận cho Kim Kiền biết.
Kim Kiền nghe xong mới vững dạ, gật đầu với Lưu Thế Xương, đẩy cửa
phòng ra ngoài nói với Trịnh Tiểu Liễu: “Tiểu Lục ca, phiền anh đến
công đường truyền báo một tiếng, nói là nạn nhân – Lưu Thế Xương
muốn lên công đường làm chứng”.
Trịnh Tiểu Liễu nghe được lời của Kim Kiền, trù trừ một lát mới
gật gật đầu, quay người chạy về phía công đường. Kim Kiền cũng đi
theo sau, vừa đi vừa cởi chiếc mũ của nha dịch đội trên đầu xuống
giắt vào thắt lưng, lại xõa búi tóc ra, vò vò tóc vài cái, nhất
thời đem bản thân hóa thành hình dạng một oan hồn tóc tai xõa xượi
vô cùng hoàn mỹ y như miêu tả trong sách vở.
Cho đến khi Kim Kiền chuẩn bị mọi thứ ổn thỏa đâu vào đấy thì cũng
vừa lúc đến cửa công đường. Hai cánh cửa lớn của công đường mở
rộng, âm thanh bên trong đều truyền đến tai hai người.
Chợt nghe giọng nói trầm trầm của Bao đại nhân quát lớn: “Ngô Đại
Lực, ngươi nói ngươi chưa bao giờ giết người, vì sao lại dùng cái
rìu này uy hiếp sai dịch Khai Phong phủ, đe dọa để thoát thân? Rõ
ràng là hành vi có tật giật mình!”.
Ngô Đại Lực đáp: “Đại nhân, quan gia của Khai Phong phủ lúc đầu không
nói rõ thân phận, khi ấy thảo dân còn tưởng rằng họ là kẻ xấu
muốn hại hai huynh đệ thảo dân, vì để tự bảo vệ mình nên mới làm
như thế”.
Bao đại nhân cao giọng hỏi tiếp: “Vậy vì sao sau khi biết được thân
phận của nha dịch ngươi lại không chịu thả người?”.
Ngô Đại Lực trả lời: “Lúc đó thảo dân biết đã mình đã đắc tội
với quan gia, nhất thời sợ hãi, chỉ muốn chạy trốn nên mới không
thả người!”.
Bao đại nhân bỗng im lặng, cả công đường trên dưới đều là một mảnh
tĩnh lặng.
Kim Kiền ở bên ngoài nghe vậy, lòng liền sáng tỏ, thầm nghĩ: Được!
Tám phần là lão Bao đã bế tắc, không trâu bắt chó đi cày, giờ mà
mình không giúp cũng không xong.
Nghĩ vậy, Kim Kiền liền đưa mắt ra hiệu cho người bên cạnh, Trịnh
Tiểu Liễu hiểu rõ, lập tức đi thẳng ra cửa công đường, cao giọng hô:
“Bẩm đại nhân, Lưu Thế Xương tới!”.
Những lời này vừa nói ra, chúng nhân trên công đường đều sững sờ,
cảm thấy khó hiểu muôn phần, lòng thầm nghĩ: Đại nhân còn chưa phát
lệnh truyền gọi, sao đột nhiên lại nảy ra một sai dịch dẫn người lên
công đường, hơn nữa kẻ truyền báo lại là tạp vụ của Tạo ban. Nhưng
điều khiến người ta không thể tưởng tượng được nhất chính là, người
được truyền báo lên công đường chính là Lưu Thế Xương, một kẻ đã
chết.
Huynh đệ Ngô thị vừa nghe thấy tên Lưu Thế Xương lại càng kinh sợ, gân
cốt, da thịt cơ hồ đều co rút hết cả, không khỏi ngoái đầu ra phía
cửa công đường mà quan sát.
Bao đại nhân cũng giật mình, đưa mắt nhìn về phía ô bồn trong công
đường, lại hướng sang phía Công Tôn tiên sinh. Công Tôn tiên sinh tuy
gương mặt vẫn mang vẻ nghi hoặc nhưng cũng khẽ gật đầu với Bao đại
nhân.
Bao đại nhân liền giơ kinh đường mộc trong tay bên vỗ một cái nói:
“Truyền Lưu Thế Xương lên công đường!”.
Kim Kiền ở bên ngoài nghe thấy vô cùng rõ ràng, lòng không khỏi giật
thót một cái, thẳng người lên, hít sâu một hơi, thầm nghĩ: Bà nó,
không nghĩ nhiều nữa, giờ thì bất cứ giá nào cũng phải cho người
cổ đại mở rộng tầm mắt, cho họ chút hiểu biết về kỹ thuật diễn
xuất cao siêu của người hiện đại được hun đúc bởi các loại phim
truyền hình.
Nghĩ đến đây, Kim Kiền vận khí dưới chân, thân hình phiêu phiêu như
sương như khói, lững lờ bay vào trong công đường, khom người quỳ
xuống, hạ giọng nói: “Thảo dân Lưu Thế Xương bái kiến đại nhân”.
Chúng nhân trên công đường đều chăm chú nhìn, chỉ thấy người này tóc
tai tán loạn, thân hình lơ lửng trôi trong không trung, còn tự xưng là
Lưu Thế Xương, ai nấy đều giật mình hoảng hốt. Nhưng nom kỹ lại thì
thấy người này hơi quen quen, đó chẳng phải là Kim Kiền của Tạo ban
hay sao?
Huynh đệ Ngô thị chưa từng nhìn thấy khinh công của Kim Kiền, chỉ
thấy thân hình người này tựa hồ như ma như quỷ, tức thì bị dọa cho
bay mất cả nửa hồn phách, Ngô Nhị Cương thì khỏi phải nói, đến cả
Ngô Đại Lực cũng biến sắc.
Bao đại nhân trên công đường nhìn thấy rất rõ ràng lòng không khỏi
có chút khó hiểu, sững ra một lát mới hỏi: “Quỳ dưới công đường
là kẻ nào?”.
Kim Kiền lại trầm giọng đáp: “Thảo dân Lưu Thế Xương”.
Bao đại nhân ngạc nhiên, đưa mắt nhìn sang Công Tôn tiên sinh. Công Tôn
tiên sinh tay cầm bút, im lặng trầm ngâm, sau đó lại quay sang Triển
Chiêu.
Triển Chiêu thấy Công Tôn tiên sinh nhìn mình liền hiểu ý, nhủ thầm:
Công Tôn tiên sinh cho rằng Kim Kiền từng cùng ta xuất môn tra án, nghĩ
ta đối với hành động của y cũng hiểu vài phần, muốn ta giải thích
tình huống hiện nay rốt cuộc là thế nào. Nhưng…
Triển Chiêu hồi tưởng lại những hành vi trước đây của Kim Kiền, mây
đen bay đầy đầu, thầm nghĩ: Lần này Công Tôn tiên sinh đánh giá cao
Triển mỗ rồi. Hành vi của Kim Kiền trước nay đều quái dị, hành
động hôm nay là thật hay là giả cũng khó mà đoán được.
Nghĩ vậy, Triển Chiêu nhíu đôi mày lưỡi mác, nhìn Công Tôn tiên sinh
khẽ lắc đầu.
Hành động này của Triển Chiêu, Công Tôn tiên sinh và Bao đại nhân đều
thấy rất rõ. Trước tình huống như vậy, hai mắt Bao đại nhân nheo
lại, cao giọng quát: “Ngươi tự xưng là Lưu Thế Xương, vậy ngươi có
biết ô bồn phía trước không?”.
Kim Kiền nghe vậy vội đáp: “Bẩm đại nhân, thảo dân biết, ô bồn này
chính là thi thể của thảo dân”.
Bao đại nhân lại hỏi: “Ô bồn này vì sao lại là thi thể của ngươi?”.
Kim Kiền hít sâu một hơi, giả vờ nghẹn ngào, chậm rãi nói: “Bẩm
đại nhân, thảo dân đang trên đường về nhà thì bị hai huynh đệ cho
thảo dân tá túc một một đêm kia sát hại. Hai huynh đệ hắn chẳng
những giết người cướp của, lại còn đem thi thể của thảo dân thiêu
thành tro bụi, trộn vào đất bùn nung thành ô bồn, mang đi bán cho
người ta. Đại nhân, mong ngài hãy trả lại công bằng cho thảo dân!”.
Bao đại nhân nheo nheo mắt, đánh giá Kim Kiền từ trên xuống dưới vài
lượt, rồi hỏi: “Lưu Thế Xương, ngươi có nhận ra được hai huynh đệ sát
hại ngươi không?”.
“Hung thủ sát hại thảo dân, tất nhiên là thảo dân nhận được!”.
“Hai kẻ đó có trên công đường này không?”.
Kim Kiền nghe vậy liền thẳng người lên, chỉ vào huynh đệ Ngô thị
quát: “Chính là hai kẻ này!”.
Bao đại nhân liền vỗ mạnh kinh đường mộc, quát lớn: “Ngô Đại Lực,
Ngô Nhị Cương, các ngươi còn gì để nói?”.
Lại nói về huynh đệ Ngô thị, khi bị Kim Kiền chỉ thẳng vào quát
lên, nhất thời hoảng sợ hồn xiêu phách tán, Ngô Nhị Cương còn suýt
chút nữa thì ngất xỉu. Ngô Đại Lực tuy cũng kinh sợ, nhưng bản chất
vốn hung ác, vẫn chưa vì hoảng sợ mà đánh mất lý trí, Kim Kiền
đứng thẳng người lên cũng khiến cho y nhìn rõ dung mạo của Kim Kiền.
Ngô Đại Lực vừa nhìn rõ, những hốt hoảng trong lòng liền tiêu đi
phân nửa, ngẩng đầu cao giọng kêu: “Đại nhân, người này nói bậy, hắn
chính là nha dịch của Khai Phong phủ. Hắn vốn không phải Lưu Thế
Xương!”.
Bao đại nhân nhíu mày nói: “Ngô Đại Lực, ngươi nói mình chưa từng
sát hại Lưu Thế Xương, tất sẽ không biết dung mạo Lưu Thế Xương. Vì
sao ngươi khẳng định người này không phải là Lưu Thế Xương, lẽ nào
ngươi đã nhìn thấy Lưu Thế Xương rồi?”.
“Việc này…”, đôi con ngươi của Ngô Đại Lực đảo vài vòng, lập tức
trả lời: “Đại nhân, thảo dân tuy không biết Lưu Thế Xương nhưng lại
biết tiểu sai dịch này. Đó là một trong ba sai dịch đã đến nhà
thảo dân hôm qua”.
Kim Kiền nghe vậy hơi nhướng mày lên, tiếp tục nói, giọng xa xôi mờ
ảo: “Bẩm đại nhân, thảo dân bị hai huynh đệ họ sát hại, thi thể bị
nung thành ô bồn, oan hồn không cách nào lên công đường, đành mượn
thân thể Kim Kiền nhập vào để lên công đường kêu oan”.
Mọi người nghe xong, lại càng kinh ngạc, nhất tề giương mắt lên quan
sát kỹ Kim Kiền. Chỉ thấy hai mắt Kim Kiền dại đi, thân thể cứng
đờ, tuy miệng thì nói nhưng lưỡi lại thẳng băng cứng ngắc, chẳng
giống bình thường chút nào, không khỏi tin đến bảy phần.
Nhưng Ngô Đại Lực không tin, lại cao giọng nói: “Oan hồn của Lưu Thế
Xương mượn xác nhập hồn, thực quá hoang đường! Ai có thể làm chứng
chuyện này được chứ?”.
Kim Kiền nghe thế cũng không khỏi sững sốt, thầm nghĩ: Ai có thể
làm chứng được ư? Làm gì có ai chứ, chuyện này vốn là giả mà, sao
có người làm chứng được?
Bao đại nhân nghe xong đột nhiên lại vỗ mạnh kinh đường mộc, cao giọng
hô: “Người đâu, truyền Lưu thị, Lưu Bách Nhi”.
Đừng nói huynh đệ Ngô thị nghe mà kinh ngạc, ngay đến Kim Kiền khi đó
cũng thầm kêu khổ, nghĩ bụng: Lão Bao à, ngài đùa à, tôi giả mạo
Lưu Thế Xương, ngài như thế nào còn mới thân nhân của người ta đến
nhận chứ? Haizzz, xem ra vở kịch này khó mà diễn tiếp được nữa
rồi.
Không lâu sau đã thấy Lưu thị dắt Bách Nhi lên công đường, cả hai cũng
quỳ xuống.
Bao đại nhân gật đầu, nhìn Kim Kiền hỏi: “Ngươi có biết hai người
này không?”.
Lúc này mồ hôi lạnh đã túa đầy lưng Kim Kiền, nhưng đã đâm lao thì
phải theo lao, nàng gắng gỏi đáp: “Thảo dân biết, họ chính là thê
tử và nhi tử của thảo dân”.
Lưu thị và Bách Nhi nghe vậy nhấy thời kinh hoàng thất sắc, Lưu thị
hoảng hốt kêu lên: “Cậu… cậu nói cái gì? Cậu không phải chính là
tiểu sai dịch sao, vì sao lại nói láo như vậy?”.
Bách Nhi thì trấn tĩnh hơn, vẻ mặt không vui nói: “Vị ca ca này chớ
nói bậy, đừng làm hỏng thanh danh nhà tôi”.
Lúc này Kim Kiền chỉ thấy bắp chân như bị chuột rút, hít sâu một
hơi, chậm rãi xoay người, rưng rưng nhìn hai mẹ con Lưu thị thật lâu
rồi mới từ từ nói: “Nương tử, Bách Nhi, ta chính là cha con, Lưu Thế
Xương đây!”.
Mẹ con Lưu thị thoáng biến sắc, kinh ngạc nhìn chằm chằm Kim Kiền,
Lưu thị run run nói: “Cậu… cậu nói cậu là tướng công?”.
Kim Kiền gật đầu, nói tiếp: “Vi phu vì muốn lên công đường làm chứng
nên đã mượn thân thể vị quan gia này để nhập hồn. Nương tử, Bách
Nhi, cuối cùng vi phu cũng có thể nhìn thấy hai người rồi…”.
Dứt lời, Kim Kiền cúi đầu xuống, hai vai run run, nom chừng như muốn
khóc, thực tế thì lòng đang lo lắng không yên, khẽ run rẩy.
Lưu thị nghe xong liền nhào đến bên người Kim Kiền gào khóc. Còn
Bách Nhi cũng đỏ hoe mắt, lặng lẽ tiến lên phía trước, khẽ hỏi:
“Cha, cha có nhớ mình đã hứa với Bách Nhi rằng tết Nguyên Tiêu sẽ
tặng Bách Nhi một cái đèn lồng không?”.
Kim Kiền nghe xong liền mừng thầm, nghĩ bụng: Trời cao phù hộ, may
mà mình nhớ rõ cái đèn lồng rách nhặt được ở nhà huynh đệ Ngô
thị kia, trên cái đèn lồng đó hình như là…
“Đương nhiên là cha nhớ chứ, là một cái đèn lồng cá chép…”
“Cha có nhớ đèn lồng cá chép đó màu gì không?”.
“Màu…”, mồ hôi lạnh túa ra đầy đầu, Kim Kiền vừa nghĩ vừa oán giận
trong lòng: Lão Bao, tuy ngài nói cái đèn lồng kia khó có thể làm
vật chứng được, nhưng ít ra ngài nên mang nó ra chứ… Chết tiệt, cái
đèn lồng cá chép đó màu gì nữa không biết? Thôi vậy, đoán bừa đi…
“Màu đỏ”, Kim Kiền chọn bừa một màu.
Chẳng ngờ lời này vừa nói ra, Bách Nhi liền nhào đến bên Kim Kiền,
khóc rống lên: “Cha, người đúng thật là cha rồi”.
Kim Kiền thở phào nhẹ nhõm, thầm nghĩ: Không ngờ mình lại may mắn
đến vậy, bịa đại ra một màu, nói bừa thế mà trúng. Nếu trở về
hiện đại, mình nhất định sẽ dốc hết vốn liếng đi mua mấy tờ xổ
số Mark six mới được, chắc chắn sẽ có triển vọng thắng lớn.
Mẹ con Lưu thị khóc thảm thiết đến mức đất trời cũng như cùng sầu
héo, còn sắc mặt huynh đệ Ngô thị cũng biến đổi như trời đất vậy.
Ngô Nhị Cương thần sắc như tiêu tán mất chỉ ngồi phịch xuống đờ ra
đất. Còn sắc mặt Ngô Đại Lực cũng trắng bệch, miệng lắp bắp không
ngừng: “Không thể nào, không thể nào…”. Rồi đột nhiên hắn hét lên
với Kim Kiền: “Không… không thể nào… ngươi… nhất định là các ngươi
thông đồng với nhau, lừa gạt chúng ta nhận tội, nhất định là như
thế!”.
Kim Kiền nghe vậy, không khỏi thầm cười nhạt, nghĩ tới câu cuối cùng
của Lưu Thế Xương nghe được trước khi chết, bèn nhìn trừng trừng vào
Ngô Đại Lực, chậm rãi nói: “Ngô Đại Lực, ngươi còn nhớ không, lúc
ngươi giết ta, ngươi vừa chém xuống vừa nói: ‘Ai cũng biết tiền bạc
phải cất kỹ không được lộ ra. Có trách thì hãy trách ngươi không
cất tiền cho cẩn thận, để hai huynh đệ chúng ta nhìn thấy được.
Ngươi cũng đừng oán chúng ta độc ác, hãy hận bản thân không cẩn
thận đi!’, từng từ từng chữ đều như dao khắc vào tim ta, ngươi không
quên đấy chứ?!”.
Ngô Đại Lực vừa nghe được những lời này liền cứng đờ người, ngã
phịch xuống đất, run như cầy sấy hệt như Ngô Nhị Cương.
Bao đại nhân đột nhiên cao giọng quát: “Ngô Đại Lực, Ngô Nhị Cương, nay
có ô bồn làm chứng, Lưu Thế Xương làm nhân chứng, các ngươi còn không
mau nhận tội?!”.
Hai tên đó làm sao có thể đáp lời, chính là để mặc cho nha dịch
cầm cung trạng tới, túm người dậy, run run điểm chỉ vào đó, rồi
lại ngã phịch xuống đất cứng đờ.
Bao đại nhân xem qua cung trạng, gật đầu, trầm giọng nói: “Dưới công
đường nghe phán quyết. Hai tên Ngô Đại Lực, Ngô Nhị Cương giết người
cướp của, đốt xác phi tang, hành vi phạm tội rõ ràng, pháp luật
không thể dung thứ, bản phủ phán hai người xử trảm. Người đâu, mang
hai tên này áp giải về đại lao, giờ ngọ ngày mai lôi ra chém đầu!”.
Mấy nha dịch liền tiến lên trước, đem huynh đệ Ngô thị toàn thân tê
dại mềm nhũn giải đi.
Bao đại nhân nói với ba người dưới công đường: “Lưu Thế Xương, nay bản
phủ đã chiếu theo pháp luật định tội hung thủ đã sát hại ngươi,
ngươi cũng có thể nhắm mắt nơi cửu tuyền rồi, mau trở về đi”.
Kim Kiền vừa nghe thấy vậy liền thầm thở phào nhẹ nhõm, khấu đầu
bái tạ, nhưng vừa mới định vận khinh công rời đi thì chẳng ngờ lại
bị Lưu thị túm chặt lấy cánh tay, sống chết thế nào cũng không
buông ra, khóc lóc thảm thiết: “Tướng công, tướng công, chàng không
thể đi… nếu chàng đi rồi… thiếp… thiếp…”.
Trước tình huống như vậy, Kim Kiền chỉ thấy đầu đau như muốn vỡ,
khuôn mặt lộ rõ vẻ lúng túng. Cơ thể bị người phụ nữ này túm
chặt, bắt phải đối diện với gương mặt đẫm lệ, đôi mắt nàng chẳng
biết nên nhìn vào đâu, chỉ đành đảo quanh bốn phía, liếc trên nhòm
dưới.
Đúng lúc quét mắt lên khuôn mặt của lão Bao đang ngồi giữa công
đường, Kim Kiền không khỏi chấn động.
Bao đại nhân tuy vẻ mặt vẫn trầm ngâm không có biểu hiện gì, nhưng
trong mắt lại lóe lên tia nhìn kỳ lạ, rồi xẹt qua một ý cười, ánh
mắt Bao đại nhân hướng sang Công Tôn tiên sinh. Kim Kiền bất giác cũng
theo ánh mắt của Bao đại nhân liếc qua Công Tôn tiên sinh, lại thấy
Công Tôn tiên sinh khẽ vuốt chòm râu đen nhánh, lông mày nhíu lại, đưa
mắt nhìn sang Tứ phẩm hộ vệ áo đỏ.
Chỉ thấy Triển Chiêu sắc mặt nghiêm túc, đôi mắt sáng như sao hơi cụp
xuống, lưng thẳng tắp như cán bút, thân hình vẫn bất động, chỉ là
ống tay áo màu đỏ khẽ bay lên, Kim Kiền bỗng cảm thấy cơ thể bị
vật gì đó bắn trúng hai cái, cả người đột nhiên cứng đờ ra, cổ
họng ứ nghẹn, không thể phát ra bất kỳ âm thanh nào, cứ thế mà ngã
vật ra đất. Không cần phải giải thích, Kim Kiền biết mình đã bị
điểm huyệt.
Lưu thị thấy vậy nhất thời cả kinh, liền bổ nhào lên người Kim Kiền
gào khóc.
Kim Kiền đáng thương, bị điểm huyệt, thân thể không cách nào cử động
được, miệng cũng không nói được, nhưng thính lực hai tai lại chẳng
mảy may suy giảm, chỉ đành nằm thẳng đơ trên đất, khổ sở chịu ma âm
xuyên màng nhĩ, thầm nghĩ: Con bà nó, cái đám người “thành tinh”
này không biết đã nhìn ra sơ hở của mình từ khi nào, ấy thế mà
lại còn đường hoàng lợi dụng mình làm nhân chứng giả nữa chứ! Khai
Phong phủ cái khỉ gì, Bao Thanh Thiên, Công Tôn tiên sinh, “Ngự Miêu”,
ngoài mặt có vẻ trung hậu thật thà nhưng bên trong thì rặt một
phường xảo trá, quỷ quyệt. Hừ hừ… cái con mèo kia nhất định bất
mãn với mình chuyện hại hắn phải chịu khổ chịu sở ngâm mình dưới
nước, nhân cơ hội này để báo thù đây mà, chết tiệt…
Không biết Lưu thị khóc đã bao lâu, cuối cùng vẫn là Bách Nhi khuyên
mẫu thân đứng dậy, cùng sai dịch dìu mẫu thân rời khỏi công đường.
Bao đại nhân cũng lệnh cho người đem Kim Kiền trở về lục phòng, cùng
với ô bồn, đặt trong phòng nghỉ của Kim Kiền và Trịnh Tiểu Liễu,
rồi hạ lệnh bãi đường.
Kể ra cũng rất kỳ lạ, vừa mới về đến lục phòng, huyệt đạo trên
người Kim Kiền bỗng nhiên được giải, đương nhiên, Kim Kiền cũng thoáng
nhìn thấy một ống tay áo màu đỏ khẽ lướt qua bên ngoài phòng.
Trịnh Tiểu Liễu vốn thấy Kim Kiền cả người cứng đờ, trong lòng vô
cùng lo lắng, lúc này nhìn cơ thể Kim Kiền lại cử động được thì
mới cảm thấy an tâm, mở miệng nói: “Kim Kiền, cậu thật là lợi hại,
đã khiến cho huynh đệ Ngô thị kia phải cúi đầu nhận tội”.
Kim Kiền chầm chậm xoay xoay gân cốt đã cứng đờ, lòng thầm cười khỗ
nghĩ: Đó đâu phải là công lao của mình tôi, hoàn toàn là kết quả
của sự đoàn kết nỗ lực một lòng của đám người “thành tinh” Khai
Phong phủ đấy chứ. Nhưng những lời này Kim Kiền cũng chỉ dám nghĩ
thầm, bởi dù sao chuyện cả một tập thể hùa nhau ngụy tạo bằng
chứng giả, thật sự không nên lan truyền rộng rãi.
Chợt nghe tiếng u u nói chuyện của ô bồn: “Kim Kiền xin đa tạ, đại ân
lớn lao nhường ấy của cậu kiếp sau nhất định tôi sẽ…”.
“Được rồi, được rồi, không cần kiếp sau đâu, chỉ cần kiếp này anh
đừng tìm tôi gây phiền phức là tốt rồi!”, Kim Kiền xua xua tay nói.
Ô bồn lại nói: “E là sẽ không có cơ hội nữa đâu, nay oan khuất của
tôi đã được rửa sạch, giờ tôi phải đến Diêm La điện để báo danh
rồi”.
Dứt lời, giọng như nghẹn lại.
Kim Kiền và Trịnh Tiểu Liễu nghe xong trong lòng cũng có đôi chút
xót xa. Trịnh Tiểu Liễu im lặng một lát, chậm rãi cất tiếng: “Lưu
huynh, vợ con huynh…”.
Ô bồn cắt ngang lời của Trịnh Tiểu Liễu, nói: “Dù có gặp cũng vô
dụng, lại càng thêm thương cảm, chẳng bằng không gặp là hơn. Nếu hai
vị có thấy Bách Nhi, nhất định phải dặn dò nó chăm sóc mẫu thân
cho tốt, chăm chỉ đọc sách, sau này mới có tương lai”.
Kim Kiền, Trịnh Tiểu Liễu nghe được những lời này đều im lặng đưa
mắt nhìn nhau rồi chắp tay lại nói: “Lưu huynh đi đường bảo trọng”.
Một màn sướng khói trắng đục từ giữa ô bồn bay lên, vờn vài vòng
trong không trung, tụ lại thành một bóng người mờ ảo, bóng người
trăng trắng này chắp tay lại vái lạy trên không một cái, rồi đột
nhiên bị một luồng ánh sáng bao phủ, trong chớp mắt biến mất không
còn tung tích. Cùng lúc đó, ô bồn tách một tiếng, vỡ ra thành từng
mảnh.
Kim Kiền và Trịnh Tiểu Liễu bất giác thấy lòng trĩu nặng vài
phần, ai nấy đều ngồi xuống im lặng, hồi lâu sau mới đứng dậy định
rời đi.
Đúng lúc ấy cửa đột nhiên mở ra, một bóng người ngược sáng tiến
vào phòng.
Hai người Kim, Trịnh vừa thấy người nọ bỗng sửng sốt kinh ngạc, cứ
ngây ra nhìn người ấy đi đến bên những mảnh vỡ của ô bồn, lặng lẽ
nhìn hồi lâu rồi ngẩng lên nhìn hai người Kim, Trịnh hỏi: “Cha đã đi
rồi ư?”.
Kim Kiền ngắm khuôn mặt non nớt trước mắt, tuy cố làm ra vẻ bình
tĩnh nhưng sâu trong đáy mắt vẫn lộ ra vẻ bi thương và hoảng loạn,
môi nàng mấp máy hồi lâu mới trả lời: “Bách Nhi, cha đệ… đi rồi”.
Bách Nhi nghe xong cúi đầu đứng lặng, hai tay nắm chặt lại, một lúc
sau mới nói: “Đệ đã đến chậm rồi, nếu không vì lo mẫu thân lại đau
lòng khóc lóc lần nữa, Bách Nhi nhất định sẽ đến sớm vài bước…”,
ngừng một lát, Bách Nhi ngẩng đầu lên hỏi: “Trước khi cha đi, người
có dặn dò gì không?”.
Trịnh Tiểu Liễu nhìn Kim Kiền, sau đó đáp: “Cha đệ dặn đệ hãy chăm
sóc tốt cho mẫu thân, phải chăm chỉ đọc sách”.
Bách Nhi nhắm mắt, gật gật đầu, khi mở mắt ra, hai mắt đã sáng lấp
lánh như sao, chấp tay thi lễ với Kim Kiền, nói: “Kim Kiền đại ca,
Bách Nhi đa tạ huynh giả làm phụ thân lên công đường, thay phụ thân
vạch mặt hung thủ”.
Kim Kiền kinh ngạc, buột miệng hỏi: “Sao đệ biết?”.
Bách Nhi hơi cụp mắt xuống, thấp giọng nói: “Chiếc đèn lồng cá
chép cha hứa với Bách Nhi là đèn màu vàng…”
Kim Kiền nhất thời kinh hãi, cứ ngẩn ra nhìn Bách Nhi với thân hình
thẳng tắp đĩnh đạc đang đi về phía cửa, lòng thầm nghĩ: Ai da, tiểu
quỷ này quả thực tư duy rất sắc bén, trên công trường nó rõ ràng
đã biết mình là đồ giả mạo, vậy mà vẫn tương kế tựu kế, nhận
mình là phụ thân, giúp lão Bao định tội hung thủ… Chậc chậc, tiểu
quỷ này ngày sau ắt sẽ tài giỏi phải biết.
Nghĩ đến đây, Kim Kiền bỗng buột miệng kêu lên: “Bách Nhi, cha đệ
nhất định sẽ vô cùng tự hào về đệ!”.
Thân hình Bách Nhi thoáng ngừng lại, từ từ xoay người, mỉm cười với
Kim Kiền, nói: “Bách Nhi biết”.
Ánh sáng rực rỡ sao lưng, nụ cười nhàn nhạt chua chát trên gương mặt
cũng không che giấu được những giọt nước mắt trong suốt như thủy tinh
chảy dài trên má. Dưới ánh sáng chói lòa, trong một thoáng Kim Kiền
cảm thấy cậu bé gầy gò nhỏ nhắn trước mắt mình kia dáng hình lại
vững vàng kiên định tựa núi.
Cho đến khi bóng dáng Bách Nhi đã đi xa, Kim Kiền vẫn còn ngẩn ngơ
tại chỗ, toàn bộ tâm tư đều đang dặt vào một chuyện: Thời Bắc Tống
này chắc là phải có một danh nhân họ Lưu chứ nhỉ.
Sau khi vụ án ô bồn kết thúc, Kim Kiền và Trịnh Tiểu Liễu vì hiệp
lực trợ giúp phá án có công nên được thưởng hai ngày nghỉ ngơi.
Trịnh Tiểu Liễu đương nhiên là về nhà bẩm báo sự tích anh hùng của
mình với thân nhân, còn Kim Kiền thì ngủ vùi trong xá phòng của Tam
ban viện hai ngày liền.
Đến sáng sớm ngày thứ ba, khi Kim Kiền và Trịnh Tiểu Liễu đến Tam
ban viện báo danh, thì thấy trong công phòng của Tạo ban có hai bị
khách không mời.
“Kim Kiền, Trịnh Tiểu Liễu, mau đến bái kiến Công Tôn tiên sinh và Lý
bổ đầu đi!”, ban đầu Tạo ban vừa thấy hai người Kim, Trịnh liền lập
tức kéo hai người đẩy ra giữa phòng.
“Bái kiến Công Tôn tiên sinh, Lý bổ đầu”, Kim Kiền và Trịnh Tiểu
Liễu cùng chắp tay thi lễ nói.
Người ngồi ở ghế thượng tọa, thân vận nho sam, đôi mắt trong suốt,
gương mặt trắng bóc đích thị là Công Tôn Trúc Tử. Mà người kia, thân
hình tráng kiện, mặt vuông chữ điền, đôi mắt dữ dằn tựa mắt hổ, da
ngăm đen, phục trang gọn gàng đơn giản, hông đeo một thanh đại đao
Khoát Diệp, chính là ban đầu Khoái ban, Lý Thiệu, bổ đầu của Khai
Phong phủ.
Kim Kiền ngước nhìn hai người trước mặt, không khỏi thầm thấy khó
hiểu, lại nom khuôn mặt tràn ngập ý cười của Công Tôn tiên sinh, lòng
bổng nhiên run rẩy, nghĩ bụng: Trước giờ Công Tôn Trúc Tử đều là
miệng nam mô bụng một bồ dao găm, lần này đến đây, không phải là lại
có âm mưu gì đó chứ? Bỏ mợ, chẳng lẽ con mèo kia đem việc mình
giúp giải độc báo cáo lại với “cây gậy trúc” này, nên bây giờ Công
Tôn Trúc Tử đến để thăm dò?
Nghĩ vậy, tinh thần Kim Kiền liền căng hết lên, thận trọng nghênh
chiến.
Chỉ thấy sắc mặt của ban đầu Tạo ban tràn ngập vẻ vui mừng nói:
“Hai người các ngươi thật có phúc, lần trước cùng Triển đại nhân
xuất môn tra án, Triển đại nhân đối với biểu hiện của hai người cứ
tán dương không ngừng, đã bẩm báo lên với Bao đại nhân. Lần này Công
Tôn tiên sinh đặc biệt tới để ban bố lệnh điều ban cho hai người”.
“Lệnh điều ban?”, Kim Kiền sửng sốt.
Chợt nghe Trịnh Tiểu Liễu bên cạnh hưng phấn kêu lên: “Lệnh điều ban?
Lẽ nào chúng thuộc hạ được điều tới Khoái ban?”.
Công Tôn tiên sinh cười nói: “Đúng là như thế, cho nên bắt đầu từ hôm
nay, hai người các ngươi sẽ đi theo Lý bổ đầu, còn không mau bái kiến
Lý bổ đầu?”.
Trịnh Tiểu Liễu nghe vậy, toét miệng cười rộng tới mang tai, thiếu
chút nữa thì lệch hàm, vội vàng quỳ xuống chắp tay thi lễ, cao
giọng hô: “Trịnh Tiểu Liễu bái kiến Lý bổ đầu”.
Công Tôn tiên sinh thấy Kim Kiền vẫn đứng ngẩn ra bên cạnh liền hỏi:
“Kim Kiền, vì sao ngươi còn chưa bái kiến Lý bổ đầu?”.
Chỉ thấy đầu lông mày của Kim Kiền giật giật, cúi đầu nói: “Công
Tôn tiên sinh, thuộc hạ vô đức vô năng, được điều về Khoái ban e rằng
không thích hợp cho lắm”.
Lý bổ đầu nghe xong ngược lại cỏn rất vui mừng, gương mặt giãn ra,
cười nói: “Triển đại nhân quả nhiên không nói sai, Kim Kiền ngươi thực
là khiêm tốn hơn người, ta rất thích những người trẻ tuổi như ngươi
đấy. Triển đại nhân đánh giá hai ngươi rất cao, hôm nay vừa gặp quả
đúng như thế”.
Đầu lông mày Kim Kiền sắp dính cả vào nhau, vừa mới định chắp tay
từ chối thì lại bị Công Tôn tiên sinh cắt ngang.
“Kim Kiền, nếu Triển hộ vệ đã ra sức đề cử, ngươi không nên chối từ
nữa”.
“…Vâng, Kim Kiền bái kiến Lý bổ đầu”
“Tốt, tốt”, Lý bổ đầu sảng khoái cười ha hả.
Công Tôn tiên sinh gật đầu, đứng dậy bước ra cửa những muốn rời đi,
nhưng vừa đến cửa thì quay người lại hỏi Kim Kiền: “Kim Kiền, độc
Triển hộ vệ trúng tại trấn Lưu Gia, chính là do ngươi giải?”.
Tinh thần Kim Kiền liền rung lên một cái, lập tức đáp: “Chính là do
thuộc hạ giải”.
Công Tôn tiên sinh lại hỏi: “Lẽ nào ngươi từng nghiên cứu qua về y
thuật và dược thuật?”.
Mồ hôi lạnh túa ra sau lưng Kim Kiền, nàng cao giọng trả lời: “Khi
thuộc hạ còn là ăn mày đã từng được một lão ăn mày dạy cho vài
cách dùng thảo dược, cũng coi như biết sơ sơ chút ít”.
Công Tôn tiên sinh đánh giá Kim Kiền mấy lần liền, nói: “Ngươi chỉ
học sơ sơ mà lại có thể giải được thi độc?”.
“Đó là bởi vì ăn mày nhiều khi đói khát không thể chịu nổi, có
phải lúc ăn phải thịt thối bị người ta vứt đi, không ít người trúng
phải thi độc, thế nên thuộc hạ mới biết cách giải”.
Công Tôn tiên sinh nghe xong những lời này mới chậm rãi gật đầu, vuốt
râu cười nói: “Nói như thế thì Kim Kiền ngươi thật ra rất có tư
chất. Sau này nếu có thời gian rảnh rỗi, đừng ngại tới tìm ta nói
chuyện, trong phòng ta cũng có một số y thư, ngươi có thể tìm đọc”.
Kim Kiền càng vùi đầu xuống thật thấp, kiên trì nói: “Thuộc hạ cảm
tạ tiên sinh”
Công Tôn tiên sinh lúc này mới hài lòng, ung dung rời đi.
Đợi đến khi Công Tôn tiên sinh đi xa, Kim Kiền và Trịnh Tiểu Liễu liền
bái biệt ban đầu Tạo ban, theo Lý bổ đầu đến Bổ phòng của Khoái
ban.
Khoái ban dù sao cũng là nơi tập trung tinh anh của Tam ban, riêng số
lượng Bổ phòng chuyên dụng cho Khoái ban cũng đã bằng số lượng công
phòng của hai ban kia gộp lại. Bài trí trong Bổ phòng cũng khác Tạo
ban, trên tường treo vô số tranh vẽ binh khí các loại, trên bàn đầy
những bức họa phạm nhân, những kẻ bị truy nã, tất cả đều được sắp
xếp tuần tự, đâu ra đấy.
Lý bổ đầu ngồi chính giữa Bổ phòng, nói cho hai người họ biết về
chức trách của Khoái ban.
Trịnh Tiểu Liễu càng nghe càng hưng phấn, còn Kim Kiền thì càng nghe
càng giật mình thon thót.
Giờ mão sáng sớm, phải đến võ trường để huấn luyện, lúc bình
thường phải đi tuần trong thành Biện Lương để duy trì và đảm bảo
trị an trong kinh đô, truy bắt kẻ phạm tội, nhân tiện giữ gìn bộ mặt
của kinh thành, rồi phải ra ngoài tới các địa phương khác để tróc
nã phạm nhân, bắt cường đạo, đạo chích, kẻ trộm; hừ hừ, buổi tối
còn phải luân phiên mà đứng gác, bảo vệ an toàn cho Khai Phong phủ…
Trời ơi, đây mà là công việc cho người làm à?
Nhưng điều quan trọng nhất chính là, tiền lương chỉ tăng thêm có mười
lượng bạc…
Kim Kiền khuôn mặt co rúm, méo mó, vặn vẹo, lòng thầm hét lên: Con
mèo thối, quả này tôi và anh kết thù to rồi đấy, đừng hòng tôi để
yên cho anh!!!
Cũng đúng lúc này, Triển đại nhân, Ngự tiền tứ phẩm đới đao hộ
vệ, đang đi tuần trong thành Đông Kinh Biện Lương, trung bình cứ hai
phút đồng hồ lại hắt hơi một lần, mãi mà không dứt.