Người đăng: khuynhtanthienha10@
Tuy nhiên lúc này Cơ Nhược Tử vẫn cười lạnh lùng đáp lại:
Điều khoản này sợ rằng không phù hợp, hiện giờ đường sá không yên ổn,
thương nhân Đế quốc Thiên Phong ta đường xa mà tới, buôn bán hàng hóa xong trở
về mà không được mời chào tùy tùng hộ vệ, không lẽ quý quốc định chủ động hộ
tống hay sao?
Muốn chúng ta hộ tống cũng không có vấn đề gì, chỉ cần chịu bỏ tiền ra là
được.
Ta lo rằng quý quốc đòi giá quá cao, chúng ta không tiếp nhận nổi.
Nếu như vậy phải nói rằng, sự lo lắng của chúng ta là hoàn toàn có cơ sở,
Cơ đặc sứ bề ngoài là thuê con đường mua bán, bề trong lại là muốn cứu Thiết
Huyết Trấn.
Xin thứ cho ta nói thẳng, ta không cảm thấy cần thiết phải cứu Thiển Thủy
Thanh và Thiết Huyết Trấn.
Cơ Nhược Tử vừa nói ra những lời này, cả đại sảnh hội nghị nở rộ lên những
tràng cười chế nhạo. Có người còn lớn tiếng kêu:
Cơ Nhược Tử không chút hoang mang, lấy ra một tờ giấy:
Cơ Nhược Tử vừa nói xong những lời này, cả đại sảnh hội nghị như bùng nổ, có
người lớn tiếng kêu lên:
Bọn Vân Nghê tỏ ra mừng rỡ vô cùng, không ngờ rằng sau khi nhận được tin tức
hết sức quan trọng này về Thiển Thủy Thanh, lại gây ra một phản ứng tích cực
như vậy, khiến cho các nàng vô cùng phấn chấn.
Cơ Nhược Tử cười lạnh:
Không thể không nói, người Đế quốc Thiên Phong quả thật đã đánh đúng vào trọng
tâm trong chuyện này.
Nói đến vấn đề tiền tài, bản tính tham lam của người Công quốc Thánh Uy Nhĩ
lập tức lộ rõ. Bọn họ bắt đầu bàn luận, thương nghị với nhau, hiển nhiên đã
động lòng với cái giá khá lớn này. Cơ Nhược Tử nhân cơ hội Thiển Thủy Thanh
vừa đại thắng, tung ra mồi câu đầy hấp dẫn này, khiến cho bọn họ không thể
không động lòng, thèm nhỏ dãi.
Nhưng tranh đấu trên phương diện chính trị ngoại giao, chính là mạnh bao nhiêu
thì tận dụng bấy nhiêu, có thể được thêm một chút lợi ích thì càng tốt. Chuyện
Thiết Huyết Trấn mượn đường về nước, tuy rằng tính chất có thay đổi, nhưng nội
dung vẫn giữ nguyên, nếu không nhân cơ hội này kiếm một món lời, vậy người
Công quốc Thánh Uy Nhĩ cũng uổng với tính tham tài của họ. Có người nói rằng
điều khoản như vậy có thể chấp thuận, có thể cho thuê con đường mua bán, nhưng
thương nhân Đế quốc Thiên Phong không được dùng bất cứ lý do gì để mời chào
bất cứ người nào ngoài người của họ gia nhập vào thương đội của Đế quốc Thiên
Phong. Đương nhiên Cơ Nhược Tử kiên quyết từ chối chuyện này, nếu không làm
cho Thiết Huyết Trấn mượn danh nghĩa lính đánh thuê hay hộ vệ để vào Công quốc
Thánh Uy Nhĩ, bất kể thế nào Cơ Nhược Tử cũng không chấp nhận.
Trong cuộc tranh chấp về miệng lưỡi này, đạo lý như thế nào thật ra không quan
trọng, nếu Cơ Nhược Tử kiên quyết bảo vệ điều khoản nào đó, rốt cục là cần
phải trả một cái giá nhất định mới có thể khiến cho bọn họ chấp thuận, Cho nên
hiện tại mấu chốt của vấn đề nằm ở chỗ, Cơ Nhược Tử bằng lòng bỏ ra cái giá
bao nhiêu.
Sau lần Cơ Nhược Tử lên đài tỏ rõ tài hoa về ngoại giao này, kết quả của lần
biểu quyết công khai đầu tiên rốt cục cũng đã có.
Bởi vì Cơ Nhược Tử từ chối ký kết điều khoản thương đội Đế quốc Thiên Phong
không được thuê người hộ tống ngay tại chỗ, số phiếu phản đối việc thuê con
đường mua bán ở hành lang Thánh Khiết là chín mươi hai, chỉ có bảy phiếu ủng
hộ. Kết quả của lần biểu quyết công khai này, dự án của Cơ Nhược Tử chỉ được
bảy vị nguyên lão tán thành, còn xa mới đủ một nửa số phiếu.
Lúc đi ra khỏi đại sảnh hội nghị, Cơ Nhược Tử mỉm cười nói:
Cẩu Tử lĩnh mệnh rời đi.
Nam tước Tra Lặc phía sau tiến lên nói với Cơ Nhược Tử:
o0o
Cung Thánh Mạn Đức.
Cung Thánh Mạn Đức là một trong mười đại danh cung trên đại lục Quan Lan, nó
không cất chứa nhiều tác phẩm nghệ thuật của các quốc gia trên đại lục như
vậy, cũng không giống như Cung hội nghị, bản thân là một tác phẩm nghệ thuật
đỉnh cao. Ngoài hình dáng hùng vĩ nguy nga, lý do mà cung Thánh Mạn Đức có thể
được xếp vào hàng mười đại danh cung là do lịch sử đặc biệt của nó.
Cung Thánh Mạn Đức là công trình kiến trúc lâu đời nhất trên đại lục, cho tới
nay nó đã trải qua gần ba trăm mùa mưa nắng. Trước khi Công quốc Thánh Uy Nhĩ
được thành lập, nó đã có mặt trên đại lục này, là công trình kiến trúc có mặt
sớm nhất trên đại lục. Lúc ấy Mạn Đức giáo gần như dùng hết tất cả tiền tài và
thời gian hàng chục năm mới xây dựng xong tòa thánh điện của Giáo hoàng này.
Mục đích phô bày dấu ấn của thần linh, hấp dẫn giáo dân, trên thực tế quả thật
nó đã làm được. Trong thời kỳ còn sớm ấy, gần như ai ai cũng đều thán phục,
không ngờ trên mảnh đất này lại có thể có một công trình kiến trúc nguy nga to
lớn như vậy. Nó là sự thể hiện đỉnh cao của công trình kiến trúc do loài người
làm ra lúc ấy, mà cho dù tới ngày nay, khi đã được gần ba trăm tuổi, cũng có
rất ít công trình nào có thể vượt hơn nó, cùng lắm chỉ có thể sánh ngang với
nó mà thôi.
Không chỉ nó đại diện cho địa vị và tôn nghiêm của một giáo phái, đồng thời
những sóng gió mà nó đã trải qua cũng đại diện cho sự thăng trầm của giáo phái
này.
Ba trăm năm qua, cung Thánh Mạn Đức đã trải qua mười ba trận hỏa hoạn, bốn lần
bị cướp bóc, hai lần động đất, một lần bị giáo phái đối nghịch tấn công. Gần
như mỗi một lần như vậy suýt nữa hoàn toàn hủy diệt sinh mạng của tòa cung
điện truyền kỳ này, nhưng nhờ vào kỳ tích mới có thể bảo tồn được, sau khi
trải qua mấy lần trùng tu với quy mô lớn, vẫn hiên ngang đừng sừng sững trên
đại lục. Bản thân của nó chính là một lịch sử, chứng kiến biết bao thay đổi
trên đại lục, là một nhân chứng chứng kiến sự thăng trầm của giáo phái. Khi
đông nhất từng có hơn mười vạn người tập trung lễ bái rầm rộ ở cung Thánh Mạn
Đức này, cũng từng bị Đại đế Ba Phỉ Tư Đặc lúc còn chấp chính tận lực đả kích
nơi này, khiến cho hoang tàn vắng vẻ. Nhưng trong khi biết bao anh hùng trên
thế gian xuất hiện rồi rơi xuống như sao băng, cung Thánh Mạn Đức vẫn đứng
sừng sững trong mưa gió, không hề sụp đổ. Bản thân nó không chỉ là một kỳ quan
của lịch sử, đồng thời cũng gần như là một viện bảo tàng trên đại lục này.
Cung Thánh Mạn Đức là trung tâm cất chứa vật lưu niệm lịch sử lớn nhất trên
đại lục. Tuy nó cất chứa phần nhiều là giáo lý, có liên quan tới nền văn hóa
thần thánh đặc biệt của người Công quốc Thánh Uy Nhĩ, nhưng không thể phủ nhận
rằng chính những thứ ấy đã ghi chép một cách trung thực về sự biến hóa của
lịch sử văn hóa và phát triển chiến tranh chính trị của các quốc gia trong
suốt ba thế kỷ.
Chúng là sách thần thánh, cũng là sách sử, xóa đi những đoạn khen ngợi thần
thánh, chúng ta có thể nhìn thấy lịch sử máu chảy thành sông, đầy dẫy những
chết chóc và giết hại của cả đại lục này.
Cung Thánh Mạn Đức không chỉ có rất nhiều di vật, sách sử, còn có rất nhiều di
sản phong phú của tiền nhân, nhất là quyền trượng, mão, chén thánh dùng để
chúc phúc mà các đời Giáo hoàng đã dùng qua, các loại tượng thiên sứ, gần như
mỗi cái trong đó đều là bảo bối vô giá.
Sự giàu có của người Công quốc Thánh Uy Nhĩ không chỉ giúp đỡ bọn họ rất nhiều
trong việc quản lý tài sản mà còn giúp đỡ bọn họ trong việc bảo vệ những di
sản. Trong dòng sông dài lịch sử, duy chỉ có Công quốc Thánh Uy Nhĩ là bảo tồn
được những di tích văn hóa và lịch sử trong mấy trăm năm. Điểm này, những quốc
gia khác không thể nào bằng được.
Chỉ cần bán ra số vật phẩm nghệ thuật, sách cổ đồ cổ, những di sản văn hóa
chứa đầy trong ba cung điện lớn này, đã đủ cho người Công quốc Thánh Uy Nhĩ
duy trì chi phí chiến tranh trong mười năm với người Đế quốc Thiên Phong. Số
của cải khổng lồ như vậy, nếu không có lực lượng hùng mạnh bảo vệ, chỉ sợ rằng
đã sớm bị người khác gồm thâu.
Nhưng đáng tiếc là trình độ của người Công quốc Thánh Uy Nhĩ về phương diện
chính trị, quân sự, kém quá xa so với trình độ của họ ở những phương diện như
nghệ thuật, lịch sử, văn hóa, vĩnh viễn chỉ có thừa sức bảo vệ mình mà không
đủ sức tấn công. Có lẽ là vì hiểu được chuyện này, cho nên người Công quốc
Thánh Uy Nhĩ càng ỷ lại vào thủ đoạn kinh tế của mình để đạt được những gì mà
họ muốn, chuyện này đương nhiên là thoải mái hơn nhiều so với đi tranh đoạt
bằng thủ đoạn quân sự.
Đương nhiên, trước mặt một số quốc gia nhỏ yếu, bọn họ cũng không ngại khoe
khoang vũ lực của mình. Giữa các quốc gia không phân chính tà, chỉ khác nhau ở
chỗ mạnh yếu, điểm này từ xưa tới nay đều là như vậy. Đương nhiên, công phu về
độ dày của da mặt cũng phải đủ cao.
Đứng trên đại điện của cung Thánh Mạn Đức, có thể thấy trước mặt là thần tượng
của Thượng Đế cao to hùng tráng, sau lưng là một cái giá chữ thập thật lớn, tõ
rõ tội nghiệt của người đời.
Cơ Nhược Tử khẽ quỳ trước mặt Thượng Đế, tay làm dấu chữ thập, lâm râm cầu
nguyện.
Hành động này đã đưa tới hảo cảm của rất nhiều người Mạn Đức giáo.
Một vị Hồng y giáo chủ trên đài mở rộng đôi tay, tư thế như đang ôm ấp hướng
về phía Cơ Nhược Tử, giống như chính Thượng Đế đang đối xử với con dân của
mình, ánh mắt tràn đầy thương hại. Ông ta hỏi:
Cơ Nhược Tử khẽ đáp:
Vị Hồng y giáo chủ nở một nụ cười:
Cơ tiểu thư rất thông minh, nhưng nàng vẫn chưa hiểu được sự vĩ đại của
Thượng Đế.
Cho nên cần Giáo chủ đại nhân chỉ điểm bến mê.
Người có thể chỉ điểm cho nàng không phải là ta, mà là Giáo hoàng bệ hạ,
xin hãy đi theo ta, ngài đang chờ nàng bên trong.
Cơ Nhược Tử đứng lên.
Giáo hoàng bệ hạ Áo Bố Lại Đặc hiện nay đã hơn bảy mươi tuổi.
Công tác về thần linh này, từ xưa tới nay luôn luôn là càng già càng đáng giá,
càng đến tuổi mắt mờ tai điếc, ngay cả nói cũng nói thều thào, như vậy lại
càng gần gũi với thần linh.
Áo Bố Lại Đặc được người tôn xưng là Giáo hoàng đời thứ hai trong lịch sử,
nhưng không phải vì lão có quan hệ thân thích gì với Giáo hoàng Áo Bố Lại Đặc
đời thứ nhất. Trên thực tế, quan hệ giữa bọn họ có thể nói là dùng súng thần
công bắn cũng không tới, chỉ là người Công quốc Thánh Uy Nhĩ rất cởi mở trong
chuyện họ tên, vả lại họ cũng có thể sử dụng đơn độc như tên, vì vậy cho nên
những người coi trọng họ tên thật sự là rất nhiều. Có nhiều khi, lúc các học
giả lịch sử nghiên cứu về người xưa, không thể nào không làm rõ quan hệ huyết
thống của bọn họ trước. Cũng giống như muốn nghiên cứu lịch sử nước Pháp,
trước tiên cần phải biết rằng Napoléon đời thứ hai không phải là con ruột của
Napoléon vậy.
Tuy rằng hiện tại Áo Bố Lại Đặc đã già, nhưng vẫn còn chưa tới nỗi lẩn thẩn.
Trên thực tế tinh thần của lão vẫn còn rất là minh mẫn, ngày ngày chuyên cần
niệm kinh, tinh thông giáo lý từ xưa đến nay. Có thể nói rằng lão ta là một
trong những vị Giáo hoàng xuất sắc nhất trong những đời Giáo hoàng của Mạn Đức
giáo.
Cơ Nhược Tử đứng giữa điện, vị lão nhân đang ngồi trên ngai ở giữa, đầu đội
mão vàng, tay cầm quyền trượng hoàng kim nạm đá quý, chính là Giáo hoàng bệ
hạ. Hai bên trái phải của Giáo hoàng có mười tám vị Hồng y giáo chủ, sát cạnh
Giáo hoàng có một nam nhân, chính là Đại Công tước Tư Ba Tạp Ước.
Nàng chưa từng được thấy khí thế của Nữ vương, nhưng nàng biết rằng khí thế
của vị Giáo hoàng bệ hạ này chỉ sợ cao hơn chứ không thể thấp hơn nữ vương.
Nếu nói rằng Nữ vương có thể giúp Cơ Nhược Tử bằng cách giao quyền biểu quyết
chuyện này cho Viện nguyên lão, như vậy Giáo hoàng có thể giúp nàng bằng sức
mạnh của ý kiến các vị nguyên lão.
Đáng tiếc rằng muốn dùng sức mạnh này nhất định phải trả một cái giá rất lớn,
mà chuyện này phải xem mồi câu mà Cơ Nhược Tử bỏ ra có đủ sức hấp dẫn hay
không.
Lúc này Giáo hoàng cất tiếng nói:
Giọng của lão trầm trầm nặng nề quanh quẩn trong làn khói mịt mờ bay trên
điện. Dường như tất cả kế hoạch của Cơ Nhược Tử đã lọt vào mắt của tất cả thần
thánh trên trời.
Cơ Nhược Tử lập tức hỏi lại:
Nhưng vậy xin hỏi Giáo hoàng bệ hạ, thánh Mạn Đức vạn năng đã gợi ý cho
ngài chuyện gì?
Lời gợi ý của thần linh lúc nào cũng hiển hiện, chúng ta đắm chìm trong
phong thái của thần linh, nhận sự rửa tội của thần linh, làm cho con người cảm
nhận được sự vĩ đại của thần linh. Những người không hiểu biết dám hoài nghi
thần linh, đó là bị ma quỷ dụ dỗ, chắc chắn sẽ bị thần linh trừng phạt.
Vậy con dân của thần linh phải làm như thế nào?
Truyền bá giáo lý Phúc âm của thiên quốc khắp trên đại lục, cứu vớt vạn
dân.
Nếu là như vậy, nhiệm vụ của Giáo hoàng bệ hạ ngài nặng nề và xa xôi quá!
Giáo hoàng Áo Bố Lại Đặc mỉm cười:
Không thể không nói, những bậc thần thánh như vậy nói chuyện lúc nào cũng mờ
mờ ảo ảo, luôn bao trùm bằng một vòng hào quang bí ẩn bên ngoài. Tất cả mọi
chuyện đều mượn tên thần linh, có được danh phận gọi là đại nghĩa, tiến hành
khống chế về mặt tinh thần của con người, khiến con người phải nghe theo mệnh
lệnh. Chuyện này mạnh mẽ hơn nhiều so với cái gọi là dị năng khống chế tinh
thần, càng có hiệu quả hơn.
Đại Công tước Tư Ba Tạp Ước nói:
Đối với tín đồ dị giáo quay lưng với phong thái của thần linh, thái độ của
chúng ta trước sau như một. Mặc dù Cơ tiểu thư có tài miệng lưỡi, thủ đoạn
khéo léo, nhưng ta có thể nói cho nàng biết một chuyện hết sức chắc chắn rằng,
thần linh nhân từ lương thiện sẽ không chấp nhận chuyện Đế quốc Thiên Phong
khuếch trương quân sự. Thiển Thủy Thanh vi phạm ý nguyện của thần linh, sẽ bị
thần linh trừng phạt, cái chết của Liệt Cuồng Diễm chính là bằng chứng rõ ràng
nhất, là sự hiển linh của thần linh.
Giáo hoàng bệ hạ, Đại Công tước Tư Ba Tạp Ước các hạ, Cơ Nhược Tử không
định làm bất cứ chuyện gì để giúp đỡ Thiết Huyết Trấn, bởi vì đó không phải là
chuyện mà ta cần lo lắng. Là đặc sứ của Đế quốc Thiên Phong, ta mang đến sự
hòa bình thay mặt Hoàng đế của tệ quốc. Chúng ta bằng lòng nghe theo lời dạy
bảo của thần linh, nghe giọng nói của thần linh, khẩn cầu được thần linh chỉ
điểm, mong được thần linh phù hộ. Mà đây chính là bằng chứng rõ ràng nhất của
người Đế quốc Thiên Phong ta hướng tới thần linh.
Giây phút ấy, Giáo hoàng Áo Bố Lại Đặc và Đại Công tước Tư Ba Tạp Ước nhìn
nhau. Những lời vừa rồi của Cơ Nhược Tử đã cho thấy hết sức rõ ràng ý tứ của
nàng: Mạn Đức giáo sẽ có cơ hội tiến vào Đế quốc Thiên Phong.
Giọng của Áo Bố Lại Đặc hơi run rẩy:
Sau đó lão nhìn Cơ Nhược Tử nói:
Cơ Nhược Tử khẽ cười:
Mắt Áo Bố Lại Đặc lóe lên sáng rực:
Cơ Nhược Tử không cần vòng vo nữa, nàng nói thẳng vào vấn đề:
Cơ Nhược Tử vừa nói ra những lời này, tất cả mọi người đều hừ lạnh, tỏ vẻ vô
cùng bất mãn. Tư Ba Tạp Ước nổi giận nói:
Cơ Nhược Tử lập tức phản đối:
Áo Bố Lại Đặc lập tức nói:
Áo Bố Lại Đặc vốn tinh thông giáo lý, thuận miệng nói ra như nước chảy mây
trôi, tuy nhiên Cơ Nhược Tử cũng không phải là kém cỏi, nàng lập tức phản đối:
Lời này của Cơ Nhược Tử lộ ra ý cảnh cáo rất rõ ràng, nếu Mạn Đức giáo muốn
tiến vào Đế quốc Thiên Phong không thành vấn đề. Nhưng nếu muốn đem quyền lực
của giáo phái áp đặt lên trên quyền lực của Hoàng gia, như vậy tuyệt đối không
thể được. Ít nhất hiện tại, Mạn Đức giáo cũng không có tư cách này.
Bất đắc dĩ, Giáo hoàng Áo Bố Lại Đặc phải lui một bước.
Bất cứ kẻ nào đối với những sự vật mới mẻ, luôn luôn sẽ có cảm giác mâu
thuẫn, việc gì cũng không thể nóng vội, cứ chậm rãi mà làm thì chắc chắn hơn.
Vậy càng phải cho giáo phái ta không gian rộng rãi hơn mới đúng, chứ không
nên thiết lập chướng ngại như vậy.
Đây không phải là thiết lập chướng ngại, mà là trật tự rõ ràng. Trên trời
có ánh sáng, dưới đất cũng có bóng tối, phong thái thần linh quảng bá khắp nơi
không phải lúc nào cũng có thể thuận buồm xuôi gió. Đối với phong thái của
thần linh, chúng dân hiểu được, lãnh hội được, tự nhiên sẽ chấp nhận, trở
thành kẻ tôi tớ của thần linh, chịu sự điểm hóa của thần linh. Nếu như chúng
dân không lãnh hội được, không tin tưởng thần linh, đó chính là tự họ tìm khổ,
sau này dần dần cũng sẽ hiểu ra. Đến khi Mạn Đức giáo có được giáo dân trong
quốc gia ta, một tòa giáo đường không đủ sử dụng, tự nhiên quốc gia ta sẽ cân
nhắc đến chính sách mở rộng.
Nếu đã là như vậy, khi nào thì cho phép mở rộng, cũng nên có thời hạn cụ
thể.
Sự nhẫn nại của thần linh không hề thấp hơn người thế tục, xin Giáo hoàng
bệ hạ đừng nóng vội.
Đã chịu ân sâu của thần linh, được thần linh cảm hóa, đương nhiên phải vì
thần linh mà ra sức.
Như vậy sau khi quý giáo đến quốc gia ta, sẽ nhờ Quốc chủ của ta quyết
định.
Lớn mật, kẻ thế tục cũng dám giao dịch với thần linh.
Chúng ta trung thành với thần linh, thần linh cũng sẽ chúc phúc cho chúng
ta. Đây không phải là giao dịch, mà là trao đổi giữa thành kính hiến dâng và
ân điển từ trên ban xuống. Hiện giờ Đế quốc Thiên Phong đã vì phong thái của
thần linh mà mở rộng cửa ngõ, không biết khi nào thần linh sẽ đi vào…
…
Không thể không nói, biểu hiện của Cơ Nhược Tử thật sự làm cho người khác phải
giật mình. Giáo hoàng đương nhiên là mượn danh nghĩa thần linh nói chuyện,
nhưng Cơ Nhược Tử cũng không chịu thua kém chút nào. Có thể thấy rằng trong
khoảng thời gian gần đây, nàng đã nghiên cứu hết sức rõ ràng về Mạn Đức giáo.
Loại quyền lực truyền bá tôn giáo tự do này, nói ra cũng rất khó. Đặc điểm lớn
nhất của Mạn Đức giáo chính là chỉ tôn thờ một vị thần thánh, những vị thần
thánh khác chỉ có thể là người hầu, nghe theo sự sai khiến của vị thần thánh
duy nhất kia. Còn tuyệt đại đa số quốc gia khác lại tôn thờ nhiều vị thần
thánh, địa vị của các vị thần thánh này gần như ngang hàng với nhau. Bởi vậy
về bản chất, tôn thờ một vị thần thánh và nhiều vị thần thánh, khó mà dung hòa
được với nhau.