Hàn Phong Quan


Người đăng: khuynhtanthienha10@

Mỗi lần trước và sau khi mưa, vào lúc giao thời giữa ngày và đêm luôn luôn có
chướng khí xuất hiện thành từng đoàn. Loại chướng khí này như mây như khói,
như ẩn như hiện, từ xa nhìn lại trông như không khí đang rung động hay khói
bếp lượn lờ.

Chuyện kỳ lạ là loại sương mù này không hề di chuyển theo làn gió, mà giống
như có thể đánh hơi, cứ nơi đâu có người và vật là chúng bay tới đó. Một khi
bị nó bao phủ mới phát hiện thì ra không phải là sương khói gì cả, rõ ràng là
hàng tỷ con muỗi độc nhỏ xíu tụ tập lại thành đàn!

Không nơi nào mà chúng nó không vào được, chúng tấn công tất cả bộ phận trên
cơ thể con người, làm cho nọc độc xuyên qua da, xâm nhập vào máu, vào các nơi
trong cơ thể...

Con người gặp được chúng, thường là cửu tử nhất sinh.

Còn có các loại nguy hiểm khác nhiều không đếm xuể, trong nền văn minh nông
nghiệp hiện nay, muốn chinh phục những vùng không có dấu chân người lui tới
như vầy, gần như là không có khả năng.

Bởi vậy, nếu muốn tiến vào Đế quốc Kinh Hồng thông qua con đường Liên minh các
thành thị tự do, nhất định phải đi qua eo biển Tam Giác. Đối với quân Đế quốc
Thiên Phong vốn không quen thủy chiến, một khi bị tập kích trên mặt biển, chỉ
sợ đại quân còn chưa tới lãnh thổ của địch nhân đã làm mồi cho binh tôm tướng
cá.

Lựa chọn thứ ba chính là cường công Hàn Phong quan.

Tuy nhiên Hàn Phong quan tường cao thành dày, được bố trí phòng vệ tầng tầng
lớp lớp, độ kiên cố trong phòng ngự của nó vượt xa Tam Trùng Thiên. Bởi vậy,
dù cho Liệt Cuồng Diễm là Chiến thần, đối mặt với một tòa hùng quan kiên cố
như vậy cũng chỉ có thể cất tiếng thở dài.

Nếu như nói kẻ muốn công thành hãm trại, nếu không có binh lực đông gấp ba lần
quân phòng thủ thì không thể đánh hạ, như vậy đối mặt với Hàn Phong quan kiên
cố như tường đồng vách sắt này, nếu không có binh lực đông gấp năm lần, Liệt
Cuồng Diễm cũng không dám dễ dàng phát động tấn công.

Lần đầu tiên nhìn thấy tòa hùng quan khổng lồ được tôn xưng là đệ nhất hùng
quan trên đại lục Quan Lan này, cảm giác của người ta là nó có khí thế hùng
hồn, cao to đồ sộ.

Hàn Phong quan có điểm khác với Tam Trùng Thiên có sẵn địa thế tự nhiên cộng
thêm trí tuệ và sự khéo léo của con người lợi dụng tối đa hiệu quả của nó
chính là, tuy Hàn Phong quan cũng được xây dựng tựa vào núi, nhưng nó là một
kiến trúc hoàn toàn được làm bằng sức người. Vả lại nó còn là một tòa thành
quan có thời gian xây dựng kéo dài nhất, hao tốn tiền của nhiều nhất, có mức
độ phòng ngự kiên cố chắc chắn nhất.

Hệ thống phòng ngự của Hàn Phong quan có đặc điểm là chia theo thứ lớp rõ
ràng, trong thủ có công.

Trận địa của Hàn Phong quan được triển khai ra khỏi ngoài tường thành tới mười
lăm dặm*, từ ngoài vào trong được chia làm ba vùng là vùng hoang vắng, vùng
cảnh giới và vùng phòng thủ.

(Dặm trong truyện này bằng một Km, hệ thống đo lường trong truyện được tính
theo hệ thống đo lường hiện tại, ví dụ như một thước cũng là một mét bây giờ.)

Trong phạm vi mười lăm dặm là vùng hoang vắng, thực hành kế sách vườn không
nhà trống, có thể vận chuyển mọi thứ rút lui vào thành. Khi cần còn có thể đốt
hết tất cả những gì không thể mang đi, sau đó đầu độc nguồn nước.

Cách tường thành năm dặm là tiến vào trong vùng cảnh giới, ven vòng ngoài vùng
cảnh giới, ở mỗi điểm cách nhau với khoảng cách nhất định bố trí một trạm canh
gác có ba người, hình thành một vành đai cảnh giới. Sau lưng vành đai cảnh
giới ấy, cứ mỗi cự ly một dặm rưỡi lại có một trạm canh gác, duy trì mối liên
lạc giữa trạm canh gác ngoài vành đai và trong thành. Tín hiệu liên lạc ban
ngày là phát hiện quân địch thì treo một lá cờ, địch tiếp cận vùng cảnh giới
thì treo hai lá cờ, địch tiến vào treo ba lá cờ, nếu địch tiến về phía thành
thì treo bốn lá cờ, địch tiếp cận thành treo năm lá cờ, buổi tối thì thay cờ
bằng lửa. Ngoài ra, các nơi hiểm yếu và các trạm kiểm soát còn có bố trí những
tiểu đội cơ động chạy tới chạy lui, mỗi tiểu đội có ba người, phụ trách trinh
sát và phản gián. Vòng cảnh giới ba trong một này sẽ rút trở vào thành khi
quân địch tiến tới sát chân thành.

Ven vòng phòng thủ bố trí những khí giới tấn công tầm xa, trong phạm vi một
vùng ngoài thành được dọn dẹp bằng phẳng tất cả, để trống trải tầm nhìn và góc
bắn.

Cách chân thành mười thước bên ngoài là hệ thống tường hộ môn được bố trí
phòng ngự hết sức đầy đủ.

Phía sau tường hộ môn có thêm một bức lũy thấp bằng gỗ hoặc đất, binh sĩ nấp
phía sau đó đợi khi quân địch tiến vào trong phạm vi của tường hộ môn, lập tức
phối hợp với quân phòng thủ trên thành dùng vũ khí sát thương địch hoặc dùng
kế hỏa công thiêu đốt địch. Phía trong một chút là một dãy cự mã rộng hai
thước rưỡi, chủ yếu gây trở ngại khiến cho quân địch khó dùng thang tiếp cận.
Ở đoạn đường ra vào của quân phòng thủ, cự mã được chôn sơ trên mặt đất tạo
thành trạng thái dễ dàng di chuyển, cũng là dấu hiệu để cho quân thủ trên
thành quan sát dễ dàng. Cuối cùng, cách chân tường hai thước rưỡi là năm hàng
cọc gỗ vót nhọn cao hơn mặt đất nửa thước, vừa có công dụng gây trở ngại cho
quân địch muốn leo lên thành, vừa có thể giết những tên địch rơi từ trên
xuống.

Sau đó là tường thành, đây là bức bình phong cuối cùng, vượt qua nó có thể vào
thành. Tường thành của Hàn Phong quan cao tới mười lăm thước, độ rộng của đầu
tường từ bảy tới mười thước, quân thủ có thể chạy nhảy di chuyển chiến đấu
thoải mái trên đó. Hai bên tường cả trong lẫn ngoài đều có tường chắn mái dày
một thước, cao từ sáu tấc tới một thước tư, riêng tường chắn mái phía ngoài
còn có trổ lỗ hổng dành cho xạ thủ. Ngoài vọng tháp xây dựng vĩnh cửu ở góc
tường thành, trong thời chiến còn xây thêm nhiều vọng gác có tính chất tạm
thời. Cứ cách sáu mươi thước lại xây một tháp quan sát ló ra ngoài tường thành
một thước, cách mỗi một trăm tám mươi thước, lại xây một tháp quan sát bằng gỗ
ló ra ngoài tường thành ba thước, cho phép quân thủ có thể giáp công tiêu diệt
quân địch nấp trong những góc chết dưới thành. Cũng cách mỗi một trăm tám mươi
thước còn bố trí một bức tường ngang trên có cắm đầy những cọc gỗ vót nhọn cao
ba thước, bình thường cửa nhỏ trên đó được mở để có thể ra vào, sau khi quân
địch đánh tới thành, cửa nhỏ ấy sẽ được đóng lại tạo thành chướng ngại vật.
Cuối cùng cứ cách mỗi ba trăm sáu mươi thước lại có một tòa tháp gỗ ló ra khỏi
tường chắn mái phía trong khoảng bốn thước, dùng để tấn công quân địch đã lọt
vào thành.

Chân tường thành của Hàn Phong quan dày hai mươi thước, thậm chí có nơi dày
tới bốn mươi thước, cho dù chân tường bị đào rỗng cũng không bị mất trọng tâm
ngã xuống, chỉ từ từ chìm xuống mà thôi. Cứ cách hai trăm thước thì đào một
đường hầm từ trong ra ngoài, khi đến gần mé ngoài chừng năm sáu tấc thì ngừng
lại, hình thành một cửa ngầm dùng cho những toán quân đột kích bí mật ra
thành. Trong cửa ngầm còn có bố trí bếp lò có ống thông gió, củi khô cỏ khô
cùng xe chướng ngại, để phòng khi quân địch phát hiện xâm nhập, lúc ấy có thể
hun khói và lấp kín đường hầm.

Dưới thành lâu, trong ngoài cửa thành đều có thiết kế những lỗ cửa tò vò,
trong cửa tò vò ấy bố trí ròng rọc để kéo cửa treo lên xuống, trên ba cánh cửa
đều bố trí lỗ bắn dành cho xạ thủ. Để đề phòng địch dùng hỏa công, ngoài việc
dự trữ rất nhiều bồn nước, lu nước và bao tải loại lớn trong thành, cứ cách
mười sáu thước lại có một dãy cọc gỗ đầu tròn nhô ra từ hai tới ba thước, mặt
ngoài cửa còn được phủ bằng lá sắt.

Nếu so với hệ thống phòng ngự dày đặc được bố trí phía ngoài tường thành, bên
trong thành cũng không trống trải gì hơn. Hai bên sườn của thành lâu và góc
thành chính là đường lớn để đi lên đầu thành, hai bên đường bố trí những đường
rẽ hình vòng cung để lên thành. Những đường rẽ này thông đến các nơi hiểm yếu,
tạo thành một mạng lưới giao thông thông đến khắp nơi bên trong thành. Tuy
nhiên nếu địch vào thành cũng không thể tiến quân thần tốc trong thành, phía
sau những đường rẽ có xây dựng một bức tường đất thấp, phía trước tường là
chiến hào sâu ba thước rưỡi, rộng ba thước, dưới đó chứa đầy củi khô cỏ khô.
Một khi quân địch vào thành, củi khô và cỏ khô dưới chiến hào lập tức được đốt
lên tạo thành những bức tường lửa, hình thành thế giáp công với quân thủ của
phe mình đánh xuống từ trên tường thành.

Ngoài ra mật độ của quân thủ trong Hàn Phong quan là cứ mỗi 1. 84 thước vuông
có một binh sĩ chính quy, mỗi 2. 3 thước vuông có một dân binh. Hai mươi lăm
phần trăm dân binh là nam nhân trưởng thành gia nhập quân thủ, năm mươi phần
trăm dân binh là nữ nhân trưởng thành phụ trách làm việc trên các công trình
và vận chuyển khí giới vật dụng, còn lại là những người yếu và lớn tuổi đảm
nhiệm tạp vụ hậu cần. Bố trí vũ khí theo nguyên tắc cứ mỗi khoảng tường thành
từ năm mươi tới chín mươi thước có một máy bắn đá, mỗi hai mươi thước có hai
mươi bó gỗ dùng tu sửa công sự phòng ngự tường thành, mỗi bốn mươi lăm thước
bố trí lò bếp, vạc nước, cát đất, mỗi bốn thước có một món vũ khí như nỏ,
kích, phủ, cùng một ít hòn đá và gậy gộc. Nếu nơi nào thiếu binh lực hay vũ
khí thì giơ cờ làm hiệu, cờ hình sói có nghĩa là nơi đó cần đội cảm tử trợ
giúp, cờ hình dê là cần một số đông quân, cờ hình chim ưng là cần bổ sung binh
khí bắn tầm xa, cờ hình hổ là cần bổ sung binh khí cận chiến, cờ màu đỏ là cần
thiết bị đánh hỏa công, cờ màu xanh là cần đá lăn, cây lăn...

Mười ba bức tường thành vây chặt, hệ thống và phương tiện phòng ngự toàn bộ
bằng sắt thép, bẫy rập bố trí khắp nơi, có mười vạn hùng binh phòng thủ, đây
chính là đại trận phòng ngự được bố trí như tường đồng vách sắt của Hàn Phong
quan. Tuy nó chỉ có một quan ải, nhưng càng đáng sợ hơn là Tam Trùng Thiên.

Nếu muốn chọn trong ba sự chọn lựa trên, có lẽ Hàn Phong quan là sự lựa chọn
mà người Đế quốc Thiên Phong không muốn đối mặt nhất, nhưng lại không thể
không chọn.

Nó giống như một chiếc đinh cắm ngay trước bước chân tiến công của người Đế
quốc Thiên Phong, bất kể tính toán chiến lược như thế nào đều là một ải trời
khó có thể vượt qua.

O0o

Nửa năm trước, Cô Chính Phàm dẫn quân Đế quốc Kinh Hồng vừa đánh vừa lui, quân
Đế quốc Thiên Phong tiến sát phía sau, thẳng tới dưới Hàn Phong quan.

Từ sau khi tin thành Đại Lương bị đánh hạ được truyền ra, các loại khí giới
công thành được vận chuyển không ngừng từ chiến trường Chỉ Thủy sang vùng Tây
Nam.

Mặc dù tạm thời chưa có ý định khơi lên một cuộc chiến mới, nhưng hướng đi của
người Đế quốc Thiên Phong đã cho thấy, chiến tranh bùng nổ chỉ là chuyện sớm
muộn mà thôi.

Hàng trăm máy bắn đá lớn có nhỏ có, trong số đó có một trăm máy bắn đá cỡ lớn,
hơn một ngàn trọng nỗ, hàng ngàn thang mây các loại, hơn trăm tháp công thành
di chuyển được, hơn ba trăm xe công thành và xe phá thành, tất cả đều đã được
chế tạo xong hoặc đang vận chuyển từ hậu phương tới. Mặc dù Hàn Phong quan đã
chặt hết cây cối xung quanh, tạo thế vườn không nhà trống, nhưng quân Đế quốc
Thiên Phong vẫn không nề hà cực khổ, chặt cây cối và vận chuyển đá từ cách đó
hàng chục dặm mang tới.

Ngoại trừ những chuyện này ra, Quân đoàn Bạo Phong còn thiết lập một trận địa
tuyến đầu cách Hàn Phong quan hai mươi dặm.

Người Đế quốc Thiên Phong đang xây dựng quân doanh, thành lũy, đào hầm, bố trí
bẫy rập, trạm canh ở trận địa này.

Lưỡi lê, chông nhọn, cọc nhọn giống như cỏ dại mọc lên rậm rạp trước gió, khắp
nơi đều thấy chiến hào, tường đất cự mã và vô số hầm bẫy. Chiến tranh đã biến
một vùng đất rộng rãi trống trải trở thành một nghĩa trang đằng đằng sát khí,
bất cứ kẻ nào xâm nhập vào mảnh đất này mà chưa được phép, cái chờ đợi hắn
phía trước chỉ là chết chóc mà thôi.

Vòng hoang vắng của Hàn Phong quan bị người Đế quốc Thiên Phong lấy làm một
nơi tập trung binh lực với quy mô vô cùng to lớn, vô số quân Đế quốc Thiên
Phong đang bận rộn trước Hàn Phong quan, không hề quan tâm tới suy nghĩ của
chủ nhân nơi này chút nào.


Đế Quốc Thiên Phong - Chương #156