Người đăng: tieulongkute
Tuy nhiên, vợ chồng Quách trang chủ chỉ có thể bí mật nhận dâu và Thiên Kim
vẫn giữ vai tỳ nữ. Thứ nhất là vì thanh danh của Hầu phủ, thứ hai vì mối hiểm
họa Xoa Lạp cốc.
Một chiều gần cuối tháng năm, Quách gia trang nhận được hai lá thư gần như
cùng một lúc. Lá thứ nhất là của Kỹ Tòng Thư thông báo hôn lễ giữa ái nữ Kỹ
Lưu Tiên và nam tử của Lưu Tài Thần. Tây Nhạc kiếm khách Lư Công Đán đã ngỏ
lời cầu hôn và đám cưới sẽ cử hành vào đầu hạ tuần tháng sáu. Đấy là lý do vì
sao Tòng Thư không đi Hứa Xương như đã hẹn. Kỹ lão đã mời vợ chồng Quách Thiên
Tường và Tử Khuê đến chơi sẵn có dịp tham dự hôn lễ luôn một thể.
Được tin này, Kỹ nương rất hân hoan vì có dịp tạ lỗi với huynh trưởng. Bà sẽ
đứng ra tổ chức lễ vu qui cho cháu gái một cách linh đình và chu đáo nhất.
Tòng Thư là nam nhân lại góa vợ nên chẳng thể nào làm tốt việc ấy được. Kỹ
nương thì đã từng gả hai chị cùng cha khác mẹ của Tử Khuê nên rất có kinh
nghiệm.
Lá thư thứ hai là của Bang chủ Cái bang gởi cho Tử Khuê. Thất Bổng Cái Thạch
Kính Tường là một trong hai người của Hội đồng Võ lâm biết lai lịch thực của
Vu Diệp chân nhân. Người kia là Trương Thiên Sư.
Nội dung thư chỉ vỏn vẹn có mấy chữ: “Kỳ Hoàng đã ngộ nạn. Vu Diệp mau đến Lạc
Dương”. Kỳ Hoàng chính là đạo hiệu của Cửu Hoa Thánh Y Cổ Sĩ hoành, sư thúc
của hai mẹ con Tử Khuê. Thư gởi đi Hứa Xương bằng chim câu, do đệ tử Cái bang
sở tại mang đến Quách gia trang, xem ra tình trạng của Cổ chân nhân rất nguy
ngập.
Người võ sĩ rất xem trọng nghĩa sư môn nên Kỷ nương vô cùng lo lắng, đốc thúc
Tử Khuê lên đường ngay sáng mai. Bà tư lự nói :
Trong lúc ái tử sửa soạn hành lý, Kỹ nương sai tỳ nữ Thu Linh đi vào thành mua
ba bốn bộ đạo bào. Tử Khuê đã mập lên rất nhiều chẳng thể mặc vừa y phục đạo
sĩ cũ.
Trình Thiên Kim rất muốn đi theo Tử Khuê nhưng không dám ngỏ lời.
Nàng sắp phải tháp tùng vợ chồng Quách trang chủ đi Bảo Bình sau đó về Hầu
phủ. Họ sẽ mang lễ vật đến gặp Trình lão thái, chính thức hỏi cưới nàng cho Tử
Khuê.
Thiên Kim mới được gần gũi người thương chẳng mấy ngày, nay phải xa lìa nên
lòng buồn vô hạn. Tối đến, nàng lặng lẽ bỏ những vật dụng cần thiết vào tay
nải của Tử Khuê và thỉnh thoảng lén gạt nước mắt.
Tử Khuê liền ôm nàng, hôn lên mắt :
Thiên Kim gật đầu, tỏ vẻ đồng ý nhưng vẫn ôm chặt tình lang như chẳng muốn xa.
Da thịt mềm mại ấm nóng và mùi hương ôn nhu từ tóc nàng đã khiến Tử Khuê động
tình. Chàng đã biết giấc mộng Vu Sơn ngày ấy là thực, càng yêu thương Thiên
Kim tha thiết và không quá giữ gìn lễ giáo khi kề cận. Nhưng hai người chỉ dám
vuốt ve nhau chứ không giao hợp vì sợ Thiên Kim cấn thai trước ngày cưới. Nàng
là một Nữ Hầu tước, chẳng thể để người đời dị nghị được.
Hôm nay, hai thân xác thanh xuân dán chặt vào nhau nên Thiên Kim cảm nhận được
ngay sự ham muốn của Tử Khuê. Nàng thẹn thùng thì thầm :
Tử Khuê tỉnh ngộ, nhớ lại những đoạn văn trong Đạo Tạng. Chàng hôn nàng và
ngượng ngùng nói :
Đạo Tạng là tổng hợp kinh thư của Đạo giáo, bắt đầu xuất hiện từ giữa thời
Đông Hán, trước hết là Thái Bình kinh và các đạo thư liên quan đến dưỡng sinh.
Từ thời Đường đến thời nhà Minh, Đạo Tạng được hoàn thành và thông hành toàn
quốc gồm có: Tam Động Quỳnh Cương, Đại Tống Thiên Cung Bảo Tạng, Vạn Thị Đạo
Tạng, Đại Kim Huyền Đô Bảo Tạng, Chính Thống Đạo Tạng, Vạn Lịch Tục Đạo Tạng.
Nội dung sách vở được đưa vào Đạo Tạng rất phồn tạp, có một lượng lớn Đạo kinh
và các điển tích liên quan tới sử tích thần tiên, nghi thức tri tiên, cũng có
cả giáo nghĩa của các giáo phái khác nhau trong các đời. Ngoài ra còn có sách
vở của Bách Gia Chư Tử, từ Tiền Tần đến đời Minh, và những sách liên quan tới
các nội dung y dược, dưỡng sinh, luyện đan.
Trong phép dưỡng sinh của Đạo Tạng có cả thuật Phòng Tung, dựa vào thuyết Âm
Dương Hòa Hợp. Thuật Phòng Tung là nghệ thuật đạt đến hoan lạc tột cùng trong
ân ái, hoặc thu được lợi ích từ việc giao phối để thân thể tráng kiện, sống
lâu.
Một trong những thủ thuật ấy của nam nhân là giữ cho mình không thoát dương.
Tuy người đàn ông sẽ thiệt thòi về mặt khoái lạc nhưng nguyên khí được bảo
toàn. Đạo Tạng còn dạy cả một phương thức tránh thai rất đơn giản là thoát
dương bên ngoài.
Đã có cẩm nang, đội uyên ương dìu nhau vào cõi mộng, thỏa lòng nhung nhớ bấy
lâu.
Mờ sáng ngày hai mươi bảy tháng năm, Tử Khuê bí mật rời Hứa Xương, mang theo
hương da thịt nồng nàn của Thiên Kim.
Xế chiều ngày hôm sau, chàng chỉ còn cách Dĩ thành vài dặm. Chợt trời đổ mưa
như trút nước, giông gió thét gào, biến những giọt mưa thành những mũi kim đâm
rát mặt người và che mờ nhãn tuyến. Dù đã có áo tơi nhưng Tử Khuê cũng đành bó
tay, thúc ngựa ghé vào căn Thập Lý đình bên vệ đường mà ẩn náu.
Dù là trường đình hay đoản đình thì chung quanh cũng chẳng bao giờ có vách nên
bụi mưa tạt vào đến tận nơi. Nhưng dẫu sao thì còn khá hơn là phơi mình dưới
gió mưa. Vả lại, sấm sét nổ liên hồi, giận dữ xé toang bầu trời xám xịt.
Sau khi đến Vũ Lương sơn, Tử Khuê đã ba lần bị sét đánh và thấy được công dụng
nhiệm màu của “Tỵ Lôi thần châu”. Mặc dù thế, chàng cũng chẳng thích làm mục
tiêu cho Lôi Thần một chút nào cả. Viên ngọc quý đã được giấu trong đùi chàng
bởi một cết mổ nhỏ để nó không bị thất lạc.
Tử Khuê ngơ ngẩn ngắm cảnh mưa gió tơi bời, tiếc rằng không có Thiên Kim bên
cạnh để hàn huyên và sưởi ấm cho nhau. Những trận ái ân cuồng nhiệt, đắm say
đêm hôm trước đã khắc sâu hình bóng nàng vào tâm thức Tử Khuê. Giờ đây, tất cả
những nữ nhân khác mà chàng từng biết đều mờ nhạt bên cạnh Thiên Kim. Nữ Hầu
tước chẳng những xinh đẹp mà còn là một tình nhân vĩ đại nhất thế gian.
Đang miên man tưởng nhớ đến người yêu, Tử Khuê chợt phát hiện trên đường quan
đạo có một bóng kỵ sĩ rạp mình phi nước đại về hướng Thập Lý đình, nơi chàng
đang đứng. Và kỳ lạ thay, những tia sét liên tiếp giáng xuống xa xa vó ngựa cứ
như Lôi Thần đang truy sát người ấy vậy.
Tử Khuê vô cùng kinh ngạc và thoáng nghĩ :
Lúc này, nạn nhân của lão Thiên Lôi mỏ nhọn chỉ còn cách căn Thập Lý đình sáu
bảy trượng. Và một tia sét đã giáng xuống khá gần con tuấn mã, làm cho nó đau
đớn hí vang rồi gục ngã, quăng cả người cưỡi ngựa xuống đất.
Ánh sáng rực rỡ của nhát búa lôi đình đã giúp Tử Khuê nhìn rõ gương mặt đầy cả
kinh hoàng của “Đông Nhạc Tiên Hồ” Dịch Tái Vân. Tóc tai dựng ngược, toàn thân
đau đớn khủng khiếp, nhất là hai chân, nhưng Tái Vân vẫn gượng đứng lên, loạng
choạng chạy về phía căn dịch đình.
Tử Khuê chẳng kịp suy nghĩ thiệt hơn, lao vút ra như mũi tên rời dây cung,
dang tay đón lấy nàng và nhấc bổng lên khỏi mặt đất sũng nước rồi nhảy lùi.
Sau đó, tia sét cuồng nộ kế tiếp đã đánh thẳng xuống, cách hai người mấy bước.
Đông Nhạc Tiên Hồ tưởng phen này chết chắc, sợ quá nên ngất xỉu bởi tiếng sét
đinh tai nhức óc.
Khi tỉnh lại, Tái Vân mơ màng nhận ra mình đang lõa thể, nằm ngửa trên một lớp
vải lụa khô ráo. Và có đôi bàn tay ấm của ai đó xoa bóp khắp thân người nàng.
Kỳ diệu thay, đội bàn tay nọ chạm đến đâu thì vị trí ấy không còn đau đớn nữa.
Nàng đã nhớ ra kẻ cứu mình là một nam nhân nhưng không quan tâm đến. Nàng chỉ
muốn mau mau thoát khỏi cảm giác đau nhức mà thôi.
Thấy ân nhân không dám động chạm đến hai vùng cấm, Tái Vân liền kéo tay người
ấy đặt lên đôi nhũ phong mơn mởn của mình, rồi đến phần bụng dưới. Khi đã hoàn
toàn thư thái, Tái Vân ngồi lên, thản nhiên nói :
Lúc này ngoài trời mưa đã bớt dữ dội nhưng không gian vẫn tối mờ. Nhờ ánh sáng
của một tia sét ở xa xa, Tái Vân nhìn hơi rõ dung mạo của ân nhân. Té ra đấy
là một chàng đạo sĩ trẻ, mặt mũi khá tuấn tú.
Chàng ta chẳng hề tỏ ra ham hố hay phân vân mà lại nghiêm trang bảo :
Nói xong, vị đạo sĩ trẻ mở tay nải, trao cho Tái Vân một bộ đạo bào để mặc
tạm. Y phục nàng đã ướt và dính đầy bùn đất.
Tái Vân thẫn thờ mặc vào, lòng rất sợ hãi, nhớ đến việc mình bắt Hàn Thiếu
Lăng từ hôn dù đã nhờ Lôi Thần chứng giám.
Trong nỗi tuyệt vọng ngút ngàn, Đông Nhạc Tiên Hồ chợt thức ngộ ra rằng chỉ có
cách đi theo vị đạo sĩ thần thông quảng đại này thì mới mong sống thọ. Tuy trẻ
tuổi nhưng đạo hạnh của chàng cao thâm đến mức cứu được người bị sét đánh.
Tái Vân liền quỳ xuống, hành lễ khóc nói :
Tử Khuê mỉm cười đáp :
Tái Vân buồn rầu thú thực :
Tử Khuê hài lòng nói bỡn :
Tái Vân thẹn thùng đáp :
Tử Khuê thấy nàng cực kỳ chân thực với mình nên cũng thương xót.
Chàng trầm ngâm bảo :
Dịch Tái Vân dập đầu van nài :
Tử Khuê bối rối tự nhủ :
Chàng phân vân một lúc rồi nói :
Nàng gọi ta là sư huynh thì hợp lý hơn. Ta sẽ dạy nàng kinh nghĩa.
Dịch Tái Vân nghe xuôi tai, mừng rỡ hỏi lại :
Tử Khuê liền nói ra danh hiệu Vu Mộc chân nhân và giải thích sơ qua nguồn gốc
của Huyền Hư phái núi Nga Mi. Chàng cũng đặt cho Tái Vân đạo hiệu Vu Thiện.
Tạnh mưa, hai người cưỡi chung một con ngựa, chậm rãi đi đến Dĩ thành.
Trước tiên, Tử Khuê ghé tiệm bán y phục mua sắm vài bộ đạo bào mới cho Tái
Vân, cùng những vật dụng cần thiết của mỹ nhân. Tay nải của nàng đã rơi mất
trên đường chạy trốn sấm sét.
Đêm ấy, họ trọ trong lữ điếm, sáng ra mua thêm ngựa khởi hành đi Lạc Dương.
Hai ngày sau, hai kẻ đồng môn đến Đăng Phong, mướn phòng ở Tung Sơn đệ nhất
khách sạn. Rặng Trung Nhạc lừng danh ở phía Bắc thành Đăng Phong, chỉ cách
chừng vài dặm.
Nửa đêm, tiết trời u ám và nhiều sấm sét. Tái Vân sợ khiếp bỏ lại phòng riêng,
sang phòng Tử Khuê nép vào người chàng mà run rẩy. Chợt có tia sét đánh tới
gần, nàng hoảng hốt ôm chặt lấy chàng.
Tử Khuê dở khóc dở mếu, nằm cứng đơ chịu trận. Tuy mang bản chất thạch nữ song
Tái Vân lại là vưu vật hiếm có trên đời. Mặt nàng đẹp tựa tố nữ trong tranh,
da dẻ trắng trẻo, thơm tho như bông bưởi. Thân thể nàng là kiệt tác của một
nghệ sĩ điêu khắc bậc thầy, cân đối phi thường. Hôm trước, lúc hút điện sét
trong người nàng ra, Tử Khuê đã có dịp chiêm ngưỡng, lòng thầm khen đấy là tác
phẩm không hề có khuyết điểm. Ngực Tái vân đầy đặn nhưng không quá lớn, vòng
eo thanh mảnh tương xứng với đôi mông tròn trịa, gọn gàng và cặp chân dài săn
chắc.
Pho tượng quyến rũ ấy không biết rung động nhưng cũng khiến bọn nam nhân cháy
bỏng bởi khát khao. Đêm ấy, Tài Vân tả tơi khốn khổ vì tai họa nên Tử Khuê chỉ
lo cứu chữa mà không nổi tà tâm. Đêm nay, uy lực của nàng đã phục hồi nguyên
vẹn, ngát hương dưới lớp áp ngủ bằng the mỏng. Trước những cơn mưa Hạ, tiết
trời khá oi bức nên Tử Khuê đã ở trần, cảm nhận được tận cùng sự tiếp xúc thịt
da người ngọc.
Chàng biết mình đã động tình, liền cố hình dung đến khuôn mặt u buồn của Thiên
Kim để sự hổ thẹn dập tắt lửa dục. Tử Khuê đã cầm cự được cho đến lúc tạnh
mưa, nhẹ nhõm trút bỏ gánh nặng.
Tái Vân phụng phịu dụi đầu vào chàng mà thỏ thẻ :
Tử Khuê thở dài bảo :
Tái Vân cười khúc khích :
Dứt lời, nàng vuốt ve khắp người chàng chẳng sót chỗ nào cả. Song Tử Khuê lại
có linh cảm rằng Tái Vân đã sinh nghi, đang cố tìm viên “Tỵ Lôi thần châu”
trên cơ thể mình. Nàng là nghĩa nữ của Âu Dương Mẫn tất phải biết thần châu là
vật duy nhất đối phó được với sấm sét. Sự cảnh giác đã khiến lòng chàng nguội
lạnh, lửa dục tắt lịm. Tử Khuê còn thầm lo lắng mình sẽ vì Tái Vân mà bại lộ
thân thể, di hại đến gia đình.
Bỗng Tái Vân dừng tay, cúi xuống hôn lên má chàng và thì thầm :
Tử Khuê hoảng sợ tới mức toát mồ hôi hột, lát sau mới trấn tĩnh được và ấp úng
hỏi :
Tái Vân cười đắc ý :
Và nàng đổi giọng u uất :
Dứt lời, Tái Vân gục xuống ngực chàng mà thổn thức. Tử Khuê động lòng trắc ẩn
vuốt ve lưng nàng và định nói lời an ủi nhưng chẳng biết nói sao.
Trưa mùng bốn tháng sáu, Tử Khuê cùng Tái Vân đến Lạc Dương. Đưa nàng vào Tổng
đàn Cái bang thì bất tiện, Tử Khuê để Tái Vân ở lại trong Cửu Triều đại khách
sạn. Lạc Dương được tôn xưng là “Cửu triều danh đô” (Kinh dô danh tiếng của
chín triều đại), nên lữ điếm này mới chọn tên như thế, hàm ý tự hào về lịch sử
lâu đời.
Chính Tái Vân chọn khách sạn này, vì nó có đến bốn tầng, sấm sét chẳng thể nào
xuyên thủng hết được. Và nàng còn thận trọng đòi tầng dưới cùng.
Thẹn vì thân không chút bạc vàng, sống bám vào Tử Khuê nên nàng phải tiết
kiệm. Biết giá phòng đắt cắt cổ, Tái Vân thản nhiên bảo lão chưởng quỹ :
Vào đến trong phòng Tái Vân mỉm cười bảo Tử Khuê :
Tuy đang cười song ánh mắt nàng buồn vời vợi, khiến Tử Khuê bất nhẫn.
Quả thực là trên đường đi, Tái Vân đã chăm sóc cho chàng chu đáo chẳng khác gì
hiền phụ. Giờ đây nàng lặng lẽ theo vào phòng tắm, kỳ lưng và gội đầu cho
chàng.
Chẳng kịp dùng cơm, Tử Khuê đi ngay đến tổng đà Cái bang ở gần cửa Đông thành.
Nghe khách xưng là Vu Diệp chân nhân, bọn hán tử ba túi cho người dẫn vào
ngay.
Cơ ngơi của ăn mày tất chẳng nguy nga, tráng lệ, sơn son thếp vàng. Ở đây chỉ
có màu xanh của cây cối là tươi mát, còn toàn bộ quần thể tam hợp viện này khá
u ám bởi những mảng màu xám xịt, lờ lợ. Mái ngói rêu xanh, tường vôi loang lổ,
cột kèo tróc sơn, trơ mộc, nền gạch mòn vẹt, lở lói. Ba năm liền nhiều địa
phương lại bị thiên tai, đệ tử Cái bang chết đói như rạ, nên Thất Bổng Cái làm
gì có tiền tu sửa tổng đà.
Đấy là thảm trạng của hai dãy Tây sương và Đông sương, nằm cạnh sân gạch rộng,
lồi lõm. Còn dãy mặt Bắc, nơi thờ phụng linh vị Đại Tổ sư và hội họp, tiếp
khách thì có khá hơn đôi chút.
Trong gian khách sảnh ở mé Đông Bắc, sáu vị Chưởng môn nhân trong Hội đồng Võ
lâm đang ngồi uống trà, sắc mặt buồn rầu, trầm trọng. Tử Khuê vội chắp tay thi
lễ :
Thất Bổng Cái nóng nảy xua tay :
Tử Khuê an tọa, chưa kịp hỏi han tình hình của sư thúc là Cửu Hoa Thánh Y thì
Bang chủ Cái bang đã hỏi ngay :
Tử Khuê nhớ đến Lỗ phán quan, phân vân đáp :
Trương Thiên Sư vỗ đùi cái bép và than :
Thấy vẻ ngơ ngác của Tử Khuê, Trương giáo chủ giải thích ngọn ngành :
Sau đó, Lỗ thí chủ nghiêm trang bảo rằng Cổ chân nhân hiện đang bị giam cầm
trong “Bát Quái Oan Hồn quỷ trận”, trên đất Hồ Nam. Lão không tiết lộ địa điểm
mà nói rằng chỉ một mình Vu Diệp hiền điệt là có thể phá được trận pháp ấy. Và
hiền điệt phải có mặt ở bờ hồ Động Đình, ngay trước lầu Nhạc Dương, đúng đêm
rằm tháng bảy, để lão ta dẫn đi phá trận.
Nói xong lão bỏ đi ngay. Bần đạo lìên bói một quẻ, để xem Thánh Y hung cát thế
nào, thì phát hiện tượng quả cực kỳ hắc ám, nguy hiểm phi thường. Vì vậy bần
đạo tin lời Lỗ thí chủ, lên đường đi Lạc Dương hy vọng Cái bang sẽ tìm ra Vu
Diệp hiền điệt.
Biết Tử Khuê không hiểu vì sao Hội đồng Võ lâm lại đủ mặt, Thất Bổng Cái tiếp
lời Trương giáo chủ :
Tùng Xuân Tử, Chưởng môn nhân phái Toàn Chân, hiền hòa an ủi Tử Khuê :
Tử Khuê nói lời cảm tạ rồi hỏi Thất Bổng Cái :
Thạch Kính Tường nhăn mặt lắc đầu :
Tử Khuê thất vọng cáo từ, hứa với sáu Chưởng môn rằng sẽ có mặt đúng hẹn.
Chàng về đến phòng trong khách sạn thì Tái vân vẫn chờ cơm chứ không ăn trước.
Nàng đợi quá lâu nên mệt mỏi ngủ gục ngay tại bàn ăn. Tử Khuê mỉm cười vỗ nhẹ
vai nàng lay gọi.
Tái vân tỉnh giấc, đứng bật dậy, tuy còn ngái ngủ mà ánh mắt vẫn tràn ngập
niềm hân hoan cực độ :
Tử Khuê rùng mình, xúc động đến tận đáy lòng, bất giác ôm lấy Tái Vân và hôn
lên má, lên môi.
Tái Vân có vẻ sung sướng, đứng im nhận lãnh sự ban thưởng, song sau đó bật
cười khúc khích, tuột khỏi vòng tay chàng :
Hai người trò chuyện, dùng bữa xong thì trời đổ mưa rào. Tử Khuê quyết định
trọ lại Lạc Dương một đêm, sáng mai mới lên đường. Những cơn mưa Hạ khu vực
sông Hoàng Hà rất dai dẳng, kéo dài suốt mấy canh giờ, và Tái Vân thì tối kỵ
đi lại dưới mưa.
Tử Khuê bỗng nghe mệt mỏi che miệng ngáp dài và tìm một giấc ngủ trưa. Tái Vân
thấy vậy sốt sắng lấy áo mỏng mang đến, dịu dàng giúp chàng thay y phục. Nàng
vui vẻ bảo :
Khi Tử Khuê lên giường thì nàng cũng lên theo song nằm cách xa vài gang. Mùi
hương tóc và da thịt mỹ nhân khiến Tử Khuê nhớ đến ái thê Trình Thiên Kim,
lòng chợt xốn xang, bối rối. Chàng sẽ giải thích với nàng thế nào đây về việc
gắn bó với Tái Vân. Do định mệnh mà chàng và Đông Nhạc Tiên Hồ đã trở thành
một đôi uyên ương sống chết không rời. Nếu có thể thì chàng đã tặng viên “Tỵ
Lôi thần châu” cho Tái Vân rồi. Tử Khuê còn thầm lo ngại khi phát hiện mình
ngày càng có cảm tình với ả hồ ly núi Thái Sơn. Chàng rất hổ thẹn và buột
miệng thở dài.
Dịch Tái Vân thấy chàng thao thức mãi liền xích lại gần, thỏ thẻ bảo :
Sau đó, nàng hát nho nhỏ một khúc dân ca đất Sơn Đông. Âm điệu đều đều, buồn
bã đã đưa Tử Khuê vào giấc ngủ dễ dàng hơn.
Sẩm tối, Tử Khuê mới thức giấc, liếc sang bên cạnh thì thấy Tái Vân đang miên
man nhìn lên trần nhà và lệ tuôn dài. Có lẽ nảng thương tâm vì số phận hẩm hiu
của mình, một kiếp hồng nhan nửa mùa và suốt đời phải trốn chạy những cơn mưa.
Tử Khuê chợt cảm thương nàng vô hạn, xoay qua kéo nàng vào lòng tỏ ý bảo bọc.
Tái Vân bật khóc thành tiếng, ôm lấy chàng thật chật. Bỗng nàng thủ thỉ :
Tử Khuê bàng hoàng nhớ đến mối tình tuyệt vọng của Thái Sơn Tiên Nương và Cửu
Hoa Thánh y. Đúng là những nữ nhân lãnh cảm vẫn có thể yêu.
Thân xác họ nguội lạnh nhưng trái tim chẳng bao giờ thôi xúc cảm.
Tử Khuê đã kể hết gia thế và tao ngộ trong cuộc đời mình cho Tái Vân nghe, nên
nàng biết tính nết của Kỹ nương cũng như Thiên Kim. Nghĩa là không còn chỗ cho
Tái Vân trong Quách gia trang và Tử Khuê thì chẳng thể phụ bạc tấm lòng trinh
liệt của Thiên Kim.
Tái Vân hiểu được điều ấy qua thái độ câm lặng của Tử Khuê. Nàng ngồi dậy,
nhìn vào mắt chàng và nói với giọng thiết tha :
Nói xong, Tái vân run rẩy cởi áo ngủ và yếm đào, để lộ phần thân trên kỳ diệu
của mình. Và nàng cầm tay Tử Khuê đặt vào đôi nhũ phong mơn mởn tựa đào tơ.
Tử Khuê hiểu rằng đây là cách duy nhất để cứu Tái Vân và giải quyết mối quan
hệ éo le của hai người. Hơn nữa, chàng thực sự bị quyến rũ bởi nét đẹp thiên
kiều bá mị của Tái Vân.
Tử Khuê say đắm vuốt ve thân thể ngà ngọc của Tái Vân. Nàng hân hoan đón nhận
nhưng da thịt chẳng hề có dấu hiệu của sự động tình và ánh mắt thấp thoáng vẻ
sợ sệt.
Tử Khuê xót thương vô củng và hiểu rằng mình không thể ái ân với Tái Vân được.
Chàng nghe lửa dục nguội dần và định bỏ cuộc. Nào ngờ, bên tai Tử Khuê bổng
văng vẳng tiếng ai, nhỏ tựa tiếng muỗi vo ve :
Giọng nói đầy ma lực khiến Tử Khuê răm rắp làm theo, chẳng chút nghĩ ngợi.
Chàng là đại cao thủ trong nghề phất huyệt môn nên chẳng cần nhìn cũng có thể
điểm rất chính xác. Sau bốn huyệt trên bụng dưới, Tử Khuê lòn tay bấm tiếp ba
huyệt dưới lưng người ngọc.
Kỳ diệu thay, gương mặt trắng trẻo của Tái Vân bổng đỏ hồng và ánh mắt rực rỡ
nỗi khát khao. Nàng háo hức mời gọi ái ân và rồi đắm mình trong hoan lạc.
Đến tận cuối canh hai đôi uyên ương mới rời nhau. Tái Vân gối đầu lên vai Tử
Khuê, thẹn thùng nói :
Tử Khuê nhớ lại, hiểu rằng hồn ma Lỗ phán quan đã chỉ điểm cho mình lúc nãy
chứ chẳng còn ai khác. Chàng vô củng hổ thẹn khi nghĩ đến việc lão chết tiệt
ấy đã rình xem cảnh phong lưu giữa mình và Tái Vân. Nhưng Tử Khuê cho rằng lão
là ma nên không giận.
Tất nhiên, chàng chẳng thể nói thực với Tái Vân, đành gượng cười :
Tái Vân định nói gì đấy nhưng lại thôi.
Sáng ra, hai người xuôi Nam, từ Lạc Dương xuống Nam Dương còn có đường khác,
không phải qua Hứa Xương.
Niềm hạnh phúc được trở thành người đàn bà thực thụ đã biến đổi tâm trạng Tái
Vân. Sau lớp sa đen buông quanh vành nón rộng, nụ cười kiều mị thoáng điểm và
ánh mắt nàng dành cho Tử Khuê luôn chất ngất yêu thương và mê đắm.
Nàng càng vui hơn khi thức ngộ Tử Khuê cũng yêu mến mình. Tái Vân sung sướng
vì điều ấy và thề sẽ lấy cho được chàng, dẫu phải chịu muôn ngàn cay đắng cũng
chẳng từ nan.
Nhưng giờ đây, nàng chưa vội thổ lộ ý định nọ.
Xế chiều mùng bảy tháng sáu, cặp đạo sĩ giả hiệu đến cánh rừng hòe ngoại thành
Nhữ Châu. Thành nằm cạnh sông Nhữ Hà nên mới có tên như thế.
Mùa hạ là mùa của loài hòe nên cành lá sum suê, um tùm, che mát cả một đoạn
quan đạo dài đến tận mấy dặm. Và lúc này đang là tháng sáu, hoa hòe nở rộ vàng
rực bên đường, hương thơm ngào ngạt. Không những thế, hoa rụng đầy đường tựa
như tấm thảm gấm vàng đón chào người lữ khách.
Hoa hòe được dùng làm thuốc nhuộm và còn là nguồn tạo ra mật ong tốt nên loài
vật nhỏ bé siêng năng ấy bay lượn khắp nơi, ve ve góp tiếng cùng lũ ve sầu
đang rỉ rả khóc than.
Đàn ong gợi cho Tử Khuê nhớ đến Thiên Kim, người con gái nuôi ong ở đất Trình.
Lòng chàng thắt lại vì hổ thẹn. Tử Khuê do hoàn cảnh mà ngày càng say đắm Tái
Vân nhưng vẫn yêu Thiên Kim hơn cả. Dẫu cho tập quán đa thê được thế gian công
nhận song đấy vẫn là hành vi bất nghĩa mà người quân tử không làm.
Dòng suy tư phiền muộn của Tử Khuê bị cắt ngang bởi chuyện lạ trước mắt. Bên
vệ đường mé hữu có một toán kỵ sĩ đang nghỉ chân. Họ gồm bốn người, áp giải
một cỗ tù xa. Trong xe tù là một nam nhân áo đen, vóc dáng trung bình. Gọi là
lạ vì bốn kỹ sĩ kia chẳng phải là công sai mà là cao thủ của Xoa Lạp cốc, còn
cỗ xa tù thì lại cắm cờ Tổng đàn Võ lâm. Tử Khuê biết lai lịch họ là nhờ nhận
ra hai gã trung niên đã từng chặn đánh chủ tớ Trình Thiên Kim ở cổng Tịch Hà
Đệ nhất tửu quán.
Tử Khuê và Tái Vân chẳng có gì phải sợ vì đang mặc y phục đạo sĩ và đội nón
tre có viềm the đen phủ kín mít. Bộ đạo bào hơi rộng nên đã che giấu thân hình
thon thả của Tái Vân, khiến người ngoài thoạt nhìn khó biết là nam hay nữ.
Nhưng khi đi ngang qua cỗ xe tù, thấy gương mặt tiền tụy, lem luốc của tù
nhân, chẳng hiều sao Đông Nhạc Tiên Hồ lại thoáng rùng mình.
Hai người chậm rãi phi nước kiệu trước ánh mắt soi mói, đề phòng của bốn kẻ
giải tù đang ngồi trên bãi cỏ. Lúc đã khuất tầm mắt của họ bởi một khúc đường
quanh co, Tái Vân bỗng đưa tay ra hiệu cho Tử Khuê rẽ vào lối mòn. Rồi nàng hạ
mã, quỳ xuống mặt cỏ, dập đầu lạy chàng và khóc nói :
Nam phụ lão ấu, tổng cộng hai mươi tám người đã bị giết, chỉ mình thiếp và đại
ca Dịch Quan San thoát ra được. Biết rằng ở lại quê nhà sẽ khó sống sót dưới
tay Lý Tri phủ nên gia huynh đã cõng thiếp lúc ấy mới năm tuổi trốn vào Trung
Nguyên.
Sau khi gởi gắm thiếp cho tiên sư là Thái Sơn Nương Nương, gia huynh đi tìm
bậc dị nhân mà học thêm võ nghệ. Tiên sư chính thực là đại di của anh em
thiếp. Song vì võ công của bà không thích hợp với nam nhân nên đã giới thiệu
gia huynh với một bằng hữu của mình.
Ba năm sau, gia huynh quay về cố quận, hành thích Lý Tri phủ rửa thù nhà. San
ca đã tra khảo Lý Tri phủ để biết lai lịch toán sát thủ mà lão ta đã mướn. Kể
từ lúc ấy, gia huynh dành cả cuộc đời cho việc truy tầm sào huyệt của Hoạch
Đầu hội. Nay chẳng hiểu sao Âu Dương Mẫn lại cho người truy bắt gia huynh?
Thiếp xin dập đầu khẩn cầu tướng công bạt kiếm cứu y. Thiếp nguyện làm thân
trâu ngựa mà hầu hạ tướng công suốt kiếp này và muôn kiếp khác.
Tái Vân kể lể một hơi rồi gục vào ngực Tử Khuê mà khóc vùi. Chàng đã sớm xuống
ngựa đỡ nàng lên chứ không để mỹ nhân quỳ lâu như thế.
Tử Khuê không ngờ cuộc đời Đông Nhạc Tiên Hồ lại đầy bất hạnh đến vậy. Chàng
xúc động đưa tay lau nước mắt trên má nàng và nghiêm nghị nói :
Tái Vân choáng váng bởi niềm hạnh phúc bất ngờ, hiểu rằng Tử Khuê đã quyết lấy
mình làm vợ. Nàng e ấp thỏ thẻ :
Tử Khuê cười buồn :
Tái Vân sung sướng đưa tay bịt miệng tình quân, vui vẻ nói :
Tái Vân rất thản nhiên khi nói lên điều đau lòng ấy. Nhưng thực ra, cũng chẳng
có gì đáng buồn vì phong tục xã hội đương thời quy định rằng con của thiếp
phải xem người vợ cả là đích mẫu và nàng chỉ như kẻ mang thai hộ mà thôi. Vả
lại, việc sanh nở sẽ khiến nhan sắc nữ nhân tàn phai nhanh chóng, một điều mà
Tái Vân tối kỵ. Không còn bận bịu con cái, nàng sẽ luôn được thảnh thơi cùng
Tử Khuê hưởng lạc thú hoặc sánh vai hành hiệp. Là người cơ trí, Tái Vân biết
mình phải làm gì, liền dặn dò Tử Khuê :
Tử Khuê mỉm cười giả lả rằng :
Tái Vân đỏ mặt vì xấu hổ song trong lòng thầm kính phục Tử Khuê. Nàng liền
đánh trống lảnh bằng cách bàn định kế hoạch giải cứu Dịch Quan San.
Nàng nổi danh là hồ ly núi Thái Sơn, mưu kế có thừa, song vì kính yêu phu
tướng mà chẳng dám khoe tài, tế nhị hỏi ý kiến Tử Khuê. Tuy dung nhan trẻ tựa
gái đôi mươi, Tái Vân vẫn tự hiểu mình đã hai mươi sáu, không nên tỏ ra quá
lão luyện khiến chàng trai non nớt kia mặc cảm. Nam nhân thích là cây sồi vững
chắc cho nữ nhân nương tựa chứ không muốn kém cạnh đàn bà.
Tái Vân tưởng Tử Khuê sẽ vấn kế mình, nào ngờ chàng lại từ tốn đáp :
Tái Vân nghe đúng ý mình chẳng sai một nét, lòng vô cùng cao hứng, thán phục.
Nàng kiễng chân lên hôn vào má chàng và tán dương :
Tử Khuê cười mát :
Gần cuối canh hai đêm ấy, trăng thượng huyền bàng bạc giữa không trung tỏa ánh
sáng dịu dàng vuốt ve vạn vật, song không làm lộ tung tích hai khách dạ hành
đang ẩn mình trên tàn cây du rậm rạp, cạnh bức tường cao của Hoàng Lương đại
lữ điếm trong thành Nhữ Châu.
Tử Khuê và Tái Vân ngồi bên nhau trên một chảng ba, nhìn xuống cỗ tù xa không
ngựa đặt trên một sân gạch rộng ở giữa dãy phòng ốc của lữ điếm. Xe tù thực
chất là một xe độc mã không mui, trên có cũi gỗ chắc chắn. Cũi gỗ ấy chỉ cho
vừa đến vai người ngồi bệt nên đầu của tù nhân sẽ ló ra ngoài.
Nhưng cạnh bên của cũi tù kết cấu bằng những thanh song gỗ lớn nhưng mặt trên
là hai mảnh ván dày. Chỗ tiếp giáp là hai mảnh ván ấy có khoét lỗ để gông
ngang cần cổ tù nhân. Lỗ này rộng hơn vòng cổ một chút nhưng đủ hẹp để đầu
không qua được. Nghĩa là kẻ phạm tội phải giữ mãi tư thế khổ sở ấy suốt những
dặm đường áp giải. Tất nhiên hai tay họ bị xích chặt, chẳng thể thò ra tháo
chốt gông được.
Kích thước cũi tù tính theo tầm vóc trung bình của người Hán nên tù nhân nào
quá cao hoặc quá thấp thì sẽ phải khốn khổ, khốn nạn.
Tử Khuê ngắm nghía cỗ tù xa và thảm trạng của tù nhân mà lòng bất nhẫn. Chàng
chua chát nghĩ thầm :
Tử Khuê bỗng rùng mình nhớ lại tướng nước Tần, “Võ An Quân” Bạch Khởi, trong
một đêm đã cho giết sạch bốn mươi vạn hàng binh nước Triệu khi chiếm được ải
Trường Bình. Sử chép rằng ngày ấy máu đổ nhiều đến nỗi nước sông suối, ao hồ
của vùng Dương Cốc đều biến thành sắc đỏ.
Trước hành vi tàn nhẫn phi thường ấy thì cũi tù quái ác kia nào có đáng gì! Tử
Khuê là người nhân hậu, tin vào trời đất, quỷ thần nên chán ghét điều ác.
Chàng chợt nghĩ đến bộ lạc người Di hiền lành ở vùng núi Vũ Lương sơn và cho
rằng họ tốt hơn người Hán rất nhiều. Khổng Phu Tử luôn đề cao đức nhân vì
thiên hạ vốn bất nhân, nhất là bọn vua quan.
Bất giác, Tử Khuê thở dài khiến Tái Vân thắc mắc, nàng nghé tai chàng nũng nịu
thì thầm :
Tử Khuê chưa kịp đáp thì trống canh ba từ huyện đường vọng lại, sau đó là
tiếng mõ tre của những gã tuần đêm, nhắc nhở bách tính cài chặt then cửa, dập
lửa trong bếp, đề phòng đạo chích cùng hỏa hoạn.
Phía dưới sân kia, đối phương đã thay ca gác, một già, một trẻ. Theo kế hoạch,
Tử Khuê cùng Tái Vân đợi thêm ít khắc, chờ hai kẻ đã đi vào phòng ngủ thật say
và hai kẻ ở ngoài cũng gật gù mới ra tay thần phục. Nhưng cặp mới thay ca lại
lớn tiếng gọi bình trà thật đậm khiến Tử Khuê quyết định thay đổi chiến thuật.
Chàng nói nhanh ý mình rồi nhảy xuống đất, chạy vào khu nhà bếp. Thấy gã tiểu
nhị của lữ điếm đang lui cui pha trà và chỉ có một mình, Tử Khuê liền điểm
huyệt gã rồi lột áo mặc bên ngoài bộ hắc y. Người võ lâm nào cũng có trong tay
nải một bộ y phục sẫm màu, thường là màu đen, may bằng lụa tốt, bó sát thân
mình để dễ bề hành động trong đêm tối.
Khi rời nhà, Tử Khuê không mang theo “Hắc Long Tiêu” nhưng lại chẳng quên đôi
bao tay “Ngư giáp miệt” cực kỳ quý giá. Đêm nay, chàng đã sớm đeo vào, tăng
cường ưu thế để có thể kết liễu đối thủ thật bất ngờ và chóng vánh.
Dưới ánh trăng mờ ảo này, người ngoài sẽ khó mà nhận ra việc chàng mang bao
tay, nhất là khi chúng đã được quét lên một lớp sơn màu da người.
Tử Khuê chít dải khăn của gã tiểu nhị lên đầu, cố tình để một đầu khăn rũ
xuống che bớt khuôn mặt.
Chàng đã để trường kiếm lại cho Tái Vân nên giờ đây hai tay rảnh rang, bưng
khay đồng đựng ấm chén trà.
Khi Tử Khuê bước đến gần chỗ cỗ xe tù thì Tái Vân cũng lần tới mép mái ngói
của dãy Tây sương, chờ phối hợp hành động.
Hai kẻ gác tù đang ngồi trên một mành chiếu, cách tù xa hơn trượng. Họ không
dám ngồi gần vì xe tù rất hôi hám, sặc mùi nước tiểu. Tội nhân chỉ được phép
xin dừng xe để đại tiện mỗi ngày một lần, còn tiểu tiện thì tại chỗ ngồi.
May thay, Dịch Quan San chưa ngủ, rầu rĩ ngửa cổ ngắm những vầng trăng mùa Hạ.
Và khi liếc về hướng Tây, gã đã phát hiện một hắc y nhân trên rìa ngói. Người
này giơ hai bàn tay trắng muốt như ra dấu với gã.
Dịch Quan San nhận ra đối phương cứ vẽ lên không trung một chữ “Vân” thì biết
là bào muội mình. Gã vui mừng khôn xiết, gật đầu lia lịa tỏ vẻ đã hiểu ý.
Rối gã bắt đầu ho lên sù sụ, liên miên như đứa trẻ bị ho gà. Những âm thanh ấy
đã che giấu tiếng động mà Tái Vân sẽ gây ra khi nhảy xuống đất, phía sau hai
gã Xoa Lạp cốc. Cặp cai tù cùng ngồi quay về hướng Đông để có thể quan sát cỗ
tù xa.
Cuối cùng, Tử Khuê cũng đã đến bên chiếc chiếu, còn Tái Vân thì cách chỉ gần
một trượng.
Đêm hè oi bức nên hai vị cai tù đã lột bỏ tơi nón, tạm quên mình là người của
Xoa Lạp cốc. Nhờ vậy Tử Khuê nhận rõ dung mạo nạn nhân của mình. Đấy là Hán tử
tuổi bốn mươi mà chàng đã gặp và một lão nhân tuổi lục tuần, không râu, mũi
to, mặt xương xẩu, đanh ác.
Hai người ấy ngồi xếp bằng, kiếm tuốt trần gác lên đùi, và vì là kẻ lão luyện
giang hồ nên họ đã sớm đặt tay lên chuôi gươm để đề phòng bất trắc, dù gã tiểu
nhị kia không hề có khí giới.
Tử Khuê thản nhiên ngồi cạnh manh chiếu, đặt khay trà xuống, và chàng mỉm
cười, hắng giọng như chuẩn bị nói vài lời nịnh nọt vậy. Nhưng không phải thế,
đấy chính là ám hiệu để Tái Vân xuất thủ. Nàng đang ngồi thu lu sau một chậu
hoa, nghe hiệu lệnh của tình lang thì búng mạnh đôi chân lao vút đến. Khi một
kẻ bị định đánh lén từ phía sau lưng, trong một khoảng cách quá gần như thế
thì rất khó toàn mạng. Lưỡi kiếm của Tái Vân đã tiện phăng cổ Hán tử trung
niên, khiến tiếng rú bi thương không sao phát ra được.
Trước đó một khoảnh khắc nhỏ bé, Tử Khuê đã vươn tả thủ thọc vào yết hầu người
còn lại. Lão ta thuộc hàng Hộ pháp của Xoa Lạp cốc nên bản lãnh chẳng tầm
thường, lại sớm vận khí phòng bị nên phản ứng rất mau lẹ. Thanh bảo kiếm trên
đùi lão lập tức ngóc lên, chặt vào cổ tay Tử Khuê. Đồng thời, tay trái của lão
xỉa thẳng vào ngực chàng theo thế cương đao.
Hai thế thức nọ đúng là công thủ vẹn toàn nhưng chỉ tiếc rằng vô hiệu đối với
“Ngư giáp miệt”. Lưỡi gươm sắc bén của lão ta không chặt đứt được uyển mạch Tử
Khuê, còn tả thủ thì chạm phải lòng bàn tay phải cứng như thép nguội mà chàng
đã thủ hờ.
Bốn ngón tay của Tử Khuê xuyên thủng cổ họng nạn nhân, phá nát cả khí quản lẫn
thực quản nên những tiếng rên ằng ặc, tắc nghẹn không làm chấn động cảnh đêm
trăng tĩnh mịch.
Sau khi đắc thủ, hai người lập tức chạy đến tù xa. Trong lúc Tử Khuê loay hoay
tháo chốt gông cổ, Tái Vân ôm đầu bào huynh mà khóc :
Dịch Quan San cằn nhằn :
Tử Khuê đã tháo được hai mảnh gông, vươn vai nhấc bổng tù nhân ra ngoài, bồng
xốc họ Dịch rồi cùng Tái Vân lướt về phía vườn hoa nhỏ sát tường sau lữ điếm.
Chàng thuận đà chạy nên có trớn lao vút qua bức tường cao gần trượng khiến
Dịch Quan San vô cùng thán phục. Gã nằm ngửa nên nhìn rõ nét mặt trẻ trung,
văn nhã của Tử Khuê, liền nghĩ thầm :
Dịch Quan San thừa biết bào muội mình là thạch nữ nên sẽ chẳng thực lòng với
bất cứ nam nhân nào.
Nửa khắc sau, ba người về đến một tòa trang viện hoang phế gần cửa Tây thành.
Tử Khuê và Tái Vân đã chọn nơi này làm chỗ trọ để dễ bề hành động. Họ không
thể đưa Dich Quan San đến khách điếm được.
Đã lâu không có người chăm sóc nên tòa phế trang tiêu điều. Cỏ dại và bụi rậm
mọc đầy sân. Tuy nhiên, tường và cổng trang còn nguyên vẹn nên người ngoài
chẳng thể thấy ánh đèn phát ra từ một phòng ở dãy nhà hướng Đông. Nó tương đối
tốt vì Tái Vân đã quét dọn rất sạch sẽ.
Nhà hoang chẳng có vật dụng gì cả song may thay những chiếc lu sành sau bếp
lại đầy ắp nước mưa. Dẫu là anh em một thì trai gái cũng không thể tắm cho
nhau nên Tử Khuê phải lãnh luôn nhiệm vụ cọ rửa cái xác thân hôi hám của Dịch
Quan San. Gã đã kiệt lực chẳng còn sức đâu mà kỳ cọ. Chàng rất ngạc nhiên khi
họ Dịch cẩn thận gỡ tấm mặt nạ da người, để lộ một dung mạo tuấn tú, khá giống
Tái Vân.
Gần nửa canh giờ sau, họ Dịch sạch sẽ và tươi tỉnh trong y phục mới. Tái Vân
đã mua sẵn cho bào huynh bốn năm bộ và đồ lót.
Món cháo gà hầm tam thất nóng hổi và vài chung rượu ngon đã làm cho gương mặt
tái sanh của Quan San có sắc hồng. Trước đó, gã đã được Tử Khuê cho uống ba
viên linh đan do mẹ chàng bào chế theo toa trong y kinh của Cửu Hoa Thánh y.
Dịch Quan San là kẻ thâm trầm, kín đáo, cơ trí còn tinh minh còn hơn cả Tái
Vân. Cho nên, đến tận lúc này gã mới mở miệng, nghiêm trang bảo Tử Khuê :
Gã tưởng chàng sẽ nhảy dựng lên, nào ngờ Tử Khuê chỉ mỉm cười, hòa nhã đáp :
Đông Nhạc Tiên Hồ nhìn gương mặt ngơ ngác của bào huynh mà phá lên cười ngặt
nghẽo. Rồi nàng ghé tai thì thầm khiến Dịch Quan San giật mình mừng rỡ, cười
khà khà :
Hay lắm! Đại ca xin chúc mừng cho hai người.