Người đăng: tieulongkute
Gần canh giờ sau, bọn Tử Khuê có mặt trước Kỹ gia trang và cục diện nơi đây đã
đến hồi gây cấn.
Vòng ngoài, hàng ngàn cao thủ độc hành, hắc đạo đứng quanh quẩn đó đây, mũ
rộng vành sùm sụp. Vòng trong, bốn lực lượng hùng mạnh nhất đứng theo hình nan
quạt đối diện với phe chủ nhà.
Có lẽ Âu Dương Mẫn đã dùng thân phận Võ lâm Minh chủ để ép buộc Kỹ Tòng Thư
phải xuất trang đối thoại. Kỹ trang chủ cùng trăm cung thủ áo xanh, đầu chít
khăn đen đứng trấn giữa cổng trang, khí thế kiên cường. Số tráng đinh còn lại
rải đều phòng thủ trên đỉnh tường quanh trang, cung tiễn sẵn sàng.
Nhưng đội ngũ đó xem ra quá nhỏ bé so với lực lượng Hắc Bạch đông đến mấy ngàn
người đang lăm le uy hiếp.
Phe Bạch đạo gồm cao thủ của năm phái trong Hội đồng Võ lâm, chỉ thiếu Thiên
Sư giáo. Vì “Diêm Vương quỷ kỳ” uy lực vô song, quan hệ đến vận mệnh của võ
lâm, nên các phái chẳng thể làm ngơ... Họ đến đây để cản trở việc tái xuất của
một Quỷ chân nhân thứ hai, tai họa khủng khiếp nhất trong lịch sử võ lâm Trung
Thổ.
Phái Võ Đương ở gần hơn cả nên đã mang đến Bảo Bình hơn trăm đệ tử giỏi nhất,
do chính Chưởng môn nhân Vân Thiên Tử thống lĩnh... Bốn phái Hoa Sơn, Thiếu
Lâm, Toàn Chân, Cái bang vì ở xa nên mỗi phái chỉ hiện diện độ ba mươi người,
song toàn là cao thủ hàng đầu.
Hơn hai trăm con người sẵn sàng hi sinh vì thanh bình của võ lâm giang hồ ấy
tập trung thành mũi dùi mé hữu Kỹ gia trang. Ba mũi dùi còn lại lần lượt là
Tổng đàn Võ lâm, Chiết Mai bang và Bích Huyết bang. Chẳng khó để nhận ra họ vì
mỗi đội quân đều có một lá đại kỳ oai phong, sặc sỡ, lớn cỡ mảng chiếu, ghi rõ
chiêu bài.
Giờ đây, những thủ lĩnh của bốn lực lượng đang tranh luận với Kỹ trang chủ về
phương thức giải quyết “Diêm Vương quỷ kỳ”. Kỹ Tòng Thư hoàn toàn cô thế vì
không còn được sự hỗ trợ của Tổng binh thành Nam Dương là Từ Hậu.
Chẳng thấy bóng dáng quan quân đâu, Tây Nhạc kiếm khách Lư Công Đán vô cùng lo
lắng liền hỏi thăm một hán tử mang đao, gã này cười đáp :
Lư Công Đán thờ dài, quay sang nói với bọn Tử Khuê :
Tại hạ cho rằng chúng ta nên đứng chung phía với các phái bạch đạo, rồi tùy
cơ ứng biến. Nay Âu Dương Mẫn và hai bang hội mới kia đều muốn chiếm đoạt
“Diêm Vương quỷ kỳ” không đồng ý để Kỹ Tòng Thư hủy đi, thì chắc chắn sẽ có
giao tranh.
Quả đúng như vậy, lúc này Kỹ trang chủ đang tức giận cao giọng :
Lão phu một đời chính trực, tuy lấy đựơc Quỷ kỳ đã muời năm, nhưng chưa một
lần tìm hỉêu bí mật của nó đã trở thành thiên hạ vô địch. Nay lão phu đồng ý
hủy đi sao chư vị nghi ngờ là của giả.
Âu Dương Mẫn lạnh lùng đáp trả :
“Nhân tâm nan trắc” nên lão phu chẳng thể sơ xuất được. Tôn giá cứ giao cho
lão phu thẩm định rồi sau đó tự tay hủy hoại.
Nhưng Bang chủ Chiết Mai bang, một nữ nhân áo vàng, mặt che bằng xa đen đã
cười khanh khách bác bỏ :
Cả giang hồ đều nói các hạ là tên ác ma Huyết Mai hội chủ năm xưa, nên bổn
Bang chủ rất e ngại không thể đồng ý được.
Âu Dương Mẫn giận điên lên chỉ mặt đối phương mà quát :
Té ra Bang chủ Chiết Mai bang họ Dương tên Tố Vy, nàng ta thản nhiên đáp :
Âu Dương Mẫn cũng không muốn rơi vào cảnh “Trai cò cắn nhau, ngư ông hưởng
lợi”, nên im tiếng, lão quay lại hỏi Kỹ Tòng Thư :
Gương mặt cương nghị của Kỹ Tòng Thư tái nhợt đi đầy vẻ tuyệt vọng, làm bớt
son đỏ giữa trán cao càng nổi bật. Ông ngẩn ngơ đưa cây cờ quỷ quái lên ngắm
nghía, chẳng biết làm sao.
“Diêm Vương quỷ kỳ” có cáng bằng thép ròng, dài độ hơn ba xích, đầu có mũi
nhọn hoắt hình mũi giáo. Lá cờ hình tam giác, nền vàng viền xanh, thêu nhằng
nhịt những nét chữ kỳ quái bằng chỉ đen, không rõ văn tự của nước nào.
Chẳng hiểu nó được dệt bằng loại tơ gì mà sau ba trăm năm vẫn chưa hề mục nát,
chỉ hơi phai màu.
Nếu nhìn thật kỹ người ta sẽ nhận ra cán cờ gồm bốn ống thép, luồn vào nhau có
thể thu ngắn lại được. Và trên thân ống, chi chít những chữ Phạn nhỏ li ti, có
lẽ là kinh văn hay thần chú.
Nhắc lại Kỹ Tòng Thư đứng lặng một hồi rồi nghiêm trang kể :
Vương chân nhân dạy rằng :
Lão phu không hiểu nên hỏi lại :
Vương tồ sư liền cười đáp :
Chàng trai đó có thể khắc chế được linh kỳ.
Kể xong, Kỹ Tòng Thư ứa lệ cao giọng :
Nay chư vị chẳng thể là chàng trai mà lão phu chờ đợi, nên linh kỳ phải được
hủy đi. Sau đó, Kỹ mỗ sẽ tự sát để tỏ lòng thanh bạch.
Đến lúc này thì Chưởng môn các phái bạch đạo đã tin tưởng tấm lòng chân thật
của Kỹ Tòng Thư. Vân Thiên Tử vội gọi lớn :
Đúng lúc ấy, Âu Dương Mẫm bất ngờ lao vút về phía Kỹ Tòng Thư với tốc độ sao
băng. Dẫu biết rằng sau khi đoạt được “Diêm Vương quỷ kỳ”, thì sẽ bị toàn
trường vây hãm, lão vẫn không hề sợ hãi. Có cờ báu trong tay, lão sẽ trở thành
bất khả xâm phạm. Âu Dương Mẫn là một trong những người hiếm hoi biết được câu
thần chú cổ xưa.
Nhưng đồng thời, từ hàng ngũ bạch đạo cũng có một bóng người bay vút ra. Người
ấy đứng ở vị trí hơi xa Kỹ Tòng Thư nên chậm chân hơn Âu Dương Mẫn một bước.
Song hắn ta nhờ thân pháp nhanh như điện mà bắt kịp và bủa lưới kiếm vào thân
tả đối phương.
Đấy là hán tử áo lam, râu rậm, thân hình to lớn tên gọi Hàn Thiếu Lăng.
Chỉ mình Thiết Đảm Hồng Nhan biết họ Hàn là quách Tử khuê, hay Vu Diệp chân
nhân.
Chẳng hiểu vì lý do gì mà Tử khuê lại liều lĩnh xuất chiêu “Thương Thiên Vô
Tâm” (trời xanh không có tim), chiêu thứ ba trong pho “Oán Thiên kiếm pháp”.
Chàng đã dồn toàn lực nên kiếm phong vút lên veo véo, kiếm kình cuồn cuộn,
khiến Âu Dương Mẫn chột dạ, phải phế bỏ ý định hạ sát Kỹ Tòng Thư, quay sang
đối phó.
Kỹ trang chủ đang bị đường gươm mãnh liệt và quỷ dị tuyệt luân của Âu Dương
Mẫn uy hiếp tính mạng, bổng thoát chết thì mừng vô hạn. Nhưng ông chưa kịp
hoàn hồn thì phát hiện Bang chủ Chiết Mai bang và Bang chủ Bích Huyết bang
đang lao đến.
Bọn cung thủ Kỹ gia trang đã buôn tên xạ thẳng vào đội hình của phe địch, trừ
các phái bạch đạo. Kỹ Tòng Thư đã sớm dặn dò thủ hạ như thế. Những xạ thủ trên
đỉnh tường trước Kỹ gia trang cũng đã ra tay, khiến lực lượng địch tổn thương
vài chục.
Nhưng toán cung thủ đứng sau lưng Kỹ Tòng Thư chưa kịp tra tên bắn lượt thứ
hai thì đã phải buông cung, rút kiếm vì quân thù đến ào ào như thác lũ.
Chỉ còn hai trăm tay thiện xạ trên đầu tường là hoạt động hiệu quả. Họ bắn như
mưa vào hàng ngũ địch giúp đồng bọn giữ vững cổng trang.
Nhắc lại Âu Dương Mẫn, hụt mất con mồi là kỹ Tòng Thư và “Diêm Vương quỷ kỳ”,
thì vô cùng giận dữ, lão nghiến răng đánh chiêu “Nhu Vân Tiềm Lợi” (mây mềm ẩn
chưá sự sắc bén).
Chiêu này ảo diệu và ác độc phi thường, kiếm ảnh trùng điệp tựa mây mù, che
kín chân thân song lại hàm chứa những thế đâm như chớp giật, tùy nghi thọc vào
tử huyệt đối phương, từ song nhãn đến đầu gối. Đây là chiêu kiếm hữu hiệu nhất
dùng trong trường hợp bị tập kích.
Âu Dương Mẫn chính thực Điền Sĩ Lệ, Hội chủ Huyết Mai hội năm xưa.
Lúc bị đánh rơi xuống vực thẳm, lão thoát chết nhờ đám dây leo và còn may mắn
gặp được nơi tọa hóa của Tam tuyệt Thần Quân Đồng Nhật Tú, cao thủ thời nhà
Nguyên. Ngoài pho bí kíp gồm ba phần tuyệt học là “Thuyết Sa thần công”, “Nhu
Vân kiếm pháp”, “Kỳ Môn Độn Giáp”, thần quân còn để lại một nhánh “Thiên niên
Hà thủ ô”. Nhờ vậy mà hiện nay Âu Dương Mẫn sở hữu đến hơn hoa giáp công lực
dù tuổi chỉ mới quá sáu mươi.
Với tu vi thâm hậu từng ấy, với chiêu “Nhu Vân Tiềm Lợi” do lão thi triển có
oai lực kinh hồn, trong võ lâm chẳng mấy ai chống nổi. Nhất là đối thủ của lão
lúc này chỉ là một kẻ hậu sinh.
Quả đúng như thế, đường kiếm của gã râu rậm kia bị Âu Dương Mẫn chặn đứng. Và
sau hơn trăm tiếng thép va chạm chói tai, lão phát hiện ra ngay hai chỗ sơ hở,
là huyệt Đại Hoành trên bụng trái và huyệt Phúc Ai bên sườn phải đối phương.
Hai huyệt này thuộc Kinh túc thái âm tỳ, thông với nội tạng.
Trong tâm lý kích động và nóng vội, Âu Dương Mẫn chẳng hề ngần ngại, thọc kiếm
vào huyệt Đại Hoàng bên trái... Vị trí ấy không được xương sườn che chở nên dạ
dày và lá lách có thể bị xuyên thủng dễ dàng.
Nào ngờ dường như hán tử áo lam râu ria kia đoán trước được, khẽ nghiên người
về mé hữu để né tránh và vươn tay điểm liền một kiếm thần sầu quỷ khóc, nhắm
vào huyệt Nhũ Trung trên ngực trái Âu Dương Mẫn. Phía sau huyệt này chính là
quả tim.
Nhát kiếm nhanh và biến hóa đến mức dù Âu Dương Mẫn đã đưa bàn tay tả che chắn
mà vẫn thọ thương. Mũi kiếm như có mắt lập tức hạ thấp xuống một chút, đâm gãy
xương lồng ngực lão ta.
Nếu là người khác thì đã lủng tim, nhưng Âu Dương Mẫn luyện “Thiết Sa Thần
Công” đã hơn hai chục năm, thân thể xương cốt cực kỳ rắn chắc nên đã bảo toàn
được phủ tạng. Tuy nhiên đoạn xương bị gãy đã làm rách màng phổi, khiến Âu
Dương Mẫn đau thấu trời và hô hấp rất khó khăn.
Lão thất kinh hồn vía, mượn lực phản chấn mà tung mình ra thật xa để tránh
chiêu kiếm thứ hai của kẻ địch. Xui xẻo thay, lão vừa hạ thân xuống đã bị Bang
chủ Chiết Mai bang tấn công. Âu Dương Mẫn cắn răng chống đỡ, vừa đánh vừa vận
khí trị thương.
Dương Tố Vy phát hiện máu hồng loan ướt đẫm ngực áo đối phương thì rất phấn
khởi, ra đòn như thác lũ mưa rào. Kiếm pháp của nàng ta ảo diệu tuyệt luân
nhưng xem ra khí lực không đủ. Nhờ vậy mà Âu Dương Mẫn dễ dàng cầm cự được.
Bang chủ Chiết Mai bang thấy lão bị thương mà còn kiêu dũng như vậy thì rất
bực bội, nàng ta bèn đánh đòn tâm lý bằng cách thét vang :
Giọng nàng cao vút áp cả âm thanh náo động của cuộc loạn chiến khốc liệt giữa
ba trăm thủ hạ Tổng đàn Võ lâm và hai bang Chiết Mai, Bích Huyết. Gọi là loạn
chiến vì chúng đánh lẫn nhau và đánh cả bọn gia đinh của Kỹ gia trang.
Lực lượng năm phái bạch đạo vẫn án binh bất động, chưa tham chiến. hầu hết họ
là hòa thượng, đạo sĩ, chẳng quen với cảnh máu chảy đầu rơi. Hơn nữa, dù sao
Âu Dương Mẫn vẫn còn là Minh chủ võ lâm, họ chẳng thể công khai đối địch với
lão được. Trừ khi Âu Dương Mẫn đoạt được “Diêm Vương quỷ kỳ” thì họ sẽ liều
mạng để tiêu diệt.
Năm vị Chưởng môn nhân trong Hội đồng Võ lâm đứng hàng đầu, nên đã mục kích
cảnh hán tử áo xanh, râu rậm đả thương Âu Dương Mẫn một cách dễ dàng. Họ vô
cùng kinh ngạc, hỏi Lư Công Đán về lai lịch của chàng trai kỳ tài, vì chàng ta
đã cùng đi với họ Lư.
Tây Nhạc kiếm khách là đệ tử của Trúc Lâm Tử, Chưởng môn nhân phái Hoa Sơn.
Nay nghe sư phụ hỏi gã kính cẩn đáp :
Phải bẩm ân sư và chư vị Chưởng môn. Vị đại ca ấy họ Hàn tên Thiếu Lăng là sư
huynh của Thiết Đảm Hồng Nhan Tống Thụy.
Thất Bổng Cái Thạch Kính Tường buột miệng nói ngay :
Bang chủ Cái bang là người thông thạo tin tức nhất võ lâm, nắm rõ lai lịch
từng cao thủ, nên đã nói ra thì phải chính xác.
Lư Công Đán ngượng ngùng gật đầu :
Đại Giác thiền sư, Phương trượng chùa thiếu lâm bổng lên tiếng :
Mọi người kiểng chân nhìn về phía mà thiến sư đã chỉ thì thấy Thiết Đảm Hồng
Nhan đang sát cánh cùng với Hàn Thiếu Lăng mà chiến đấu. Họ đang cố mở đường
máu, đưa Kỹ trang chủ trở vào trong. Lúc này cổng chính Kỹ gia trang đã bị các
đầu lĩnh Bích Huyết bang chấn giữ, chặn đứng sinh lộ của Tòng Thư.
Tám cao thủ nọ gồm chín người, kể cả Bang chủ Bích Huyết bang Trịnh Bá Nghiêm.
Họ Trịnh tuổi độ hơn ba mươi, mắt diều, mũi ưng, miệng rộng, mày kiếm xếch
ngược, tướng mạo oai võ tuấn tú, phong thái hiên ngang đáng mặt anh hùng.
Vũ khí của gã là một cây thương bằng thép mạ vàng, rực rỡ dưới ánh chiều tà.
Nam Thiên Tôn Từ Tôn Chiến là võ lâm đệ nhất thần thương nên đệ tử của lão
cũng dùng thương.
Trịnh Bá Nghiêm còn đội ngân quan có gắn hai cọng lông đuôi chim công dài nên
càng giống Thường Sơn Triệu Tử Long trong tuồng cổ. Gã thống lĩnh bốn lão nhân
dùng đao, tuổi quá lục tuần, vây đánh Kỹ Tòng Thư, quyết đoạt cho được “Diêm
Vương quỷ kỳ”. Bốn lão còn lại trấn giữ cổng trang không cho bọn gia đinh bên
trong ra tiếp viện. Không chỉ bấy nhiêu, gần trăm bang chúng Bích Huyết bang
cũng tham gia, so tài với bọn kiếm thủ, học trò của Tòng Thư.
“Minh sư tất hữu cao đồ’. Do đó tuy tuổi mới chỉ ba mươi bốn mươi, mà bản lãnh
của Trịnh Bá Nghiêm lại cao siêu hơn Kỹ trang chủ, gã may mắn được Nam Thiên
Tôn cho ăn kỳ trân của đất Miêu Cương là con “Bích Niên Xuyên Sơn Giáp”. Xem
ra món thịt trúc già hầm thuốc bắc ấy, quả là rất bổ béo nên Bá Nghiêm có thêm
mười năm chân khí, với số tu vi tròn trèm nữa hoa giáp, gã có thể vũ lộng cây
thương nặng ba chục cân một cách nhẹ nhàng, phát huy hết uy lực của pho “Hoàng
Long thương pháp”.
Thương dài gần gấp đôi trường kiếm, lại nặng hơn nên Kỹ Tòng Thư càng bất lợi.
Ông thủ nhiều hơn công chủ yếu là để bảo toàn tính mạng. Và may thay, Tòng Thư
đã thức ngộ ra rằng đối phương không dám hủy hoại “Diêm Vương quỷ kỳ”, nên ông
đã khôn ngoan đưa cả mảnh lụa cũ ấy ra mà chống đỡ những đường thương dũng
mãnh của Bá Nghiêm. Thế là họ Trịnh hoảng vía phải thu kim thương về, sợ làm
rách bảo vật. Nhờ vậy mà Kỹ Tòng Thư có thể ung dung cầm cự, che chắn mặt sau
cho đôi trai gái lạ mặt kia mở đường máu rút lui.
Kỹ trang chủ thầm đoán ra lai lịch của Thiết Đảm Hồng Nhan, khi chứng kiến lối
đánh nhau hung hăng và bạt mạng của nàng. Trong võ lâm, chỉ mình nữ nhân Tống
Thụy là có đấu pháp này, còn hán tử áo xanh lực lưỡng kia là ai thì lão chẳng
rõ, chỉ nghe Tống Thụy gọi là sư huynh. Nhưng chàng ta lại chính là kẻ đã đả
thương Âu Dương Mẫn để cứu mạng lão. Kỹ Tòng Thư tri ân họ nhưng vẫn canh cánh
đề phòng, sợ hai người ấy giả vờ thân thiện rồi thừa cơ chiếm linh kỳ.
Tử Khuê và Tống Thụy chẳng hề để ý tới tâm tư của Tòng Thư, cứ ra sức chiến
đấu vì lão. Tuy không hiểu lý do vì sao Tử Khuê ra tay cứu giúp họ Kỹ, song
Thiết Đảm Hồng Nhan vẫn hăng hái sánh vai chàng. Nàng chỉ chậm hơn vị sư huynh
hờ kia vài bước.
Giờ đây đối thủ của hai người là bốn lão nhân cầm đao, có lẽ là hộ pháp của
Bích Huyết bang. Dẫu biết rằng “Lưỡng quyền nan địch tứ quyền”, nhưng Thiết
Đảm Hồng Nhan chẳng hề run sợ, thản nhiên mà đối phó bằng dũng khí của một con
cọp cái.
Trong thời gian qua, tuy không học được yếu quyết cao nhất của kiếm đạo là
phép biến hoá, song nàng cũng tiếp thu khá nhiều chiêu thức tuyệt diệu của
Trung Thiên Tôn. Việc này đã làm cho bản lĩnh của nàng tăng tiếng thêm vài
bậc. Trước kia võ công Tống Thụy còn kém Tây Nhạc kiếm khách Lư Công Đán một
chút, nhưng giờ đây gã chỉ đáng xếp hàng sư đệ. Nhờ vậy mà hôm nay nàng có thể
chống chọi với hai cao thủ lão làng của phương nam.
Tống Thụy giữ được thế quân bình thì Tử Khuê phải khá hơn, sau khi thụ giáo
Trung Thiên Tôn Trần Ninh Tĩnh về kiếm đạo, nghề đánh gươm của Tử Khuê đã đạt
tới mức thượng thừa, không còn lệ thuộc vào hình thức của kiếm chiêu nữa. Bằng
chứng là khi xuất chiêu “Thượng Thiên Vô Tâm”, trong pho “Oán Thiên kiếm
pháp”, chàng đã đắc thủ mà không hề bị thương. Biến hóa là đạo lý vận hành của
vũ trụ, võ học cũng chẳng nằm ngoài lý ấy. Cho nên, kẻ nắm được biến hóa chính
là người thượng trí, thành tựu vượt xa người thường.
Tuy nhiên, võ nghệ còn tùy thuộc vào bản thân sức lực, tu vi nên bản lĩnh Tử
khuê vẫn còn kém so với các cao thủ lão thành, như Âu Dương Mẫn chẳng hạn.
Lúc nãy, Tử khuê đả thương được lão ta là nhờ yếu tố bất ngờ cũng như đặc tính
quái dị của “Oán Thiên kiếm pháp”. Lần sau gặp gỡ, Âu Dương Mẫn sẽ không còn
khinh địch nữa và chàng sẽ thua thiệt..
Nhưng giờ đây đối thủ của chàng chẳng phải là Âu Dương Mẫn nên chỉ sau vài
chục chiêu là Tử Khuê đã phá được thế giáp công của hai lão hộ pháp Bích Huyết
bang. Chàng xuất chiêu “Mộ Cổ Thần Cung” (Trống chiều chuông sáng) trong pho
“Thanh Long kiếm pháp”, bủa lưới kiếm chụp lấy lão già cao gầy ở mé hữu.
Nạn nhân lập tức nghe hơi thép lạnh làm rờn rợn thân trên và trước mặt là hàng
trăm bóng kiếm chập chờn. Lão chột dạ múa tít cương đao giải phá chiêu kiếm
đáng sợ kia. Song chỉ sau vài tiếng thép chạm nhau tinh tang, lão chợt nghe
bụng nhói đau khủng khiếp. Chẳng hiểu bằng cách nào mà mũi kiếm của đối phương
đã đi xuyên qua huyệt Thần khuyết nơi rốn lão và cắt đứt ruột non.
Lão hộ pháp cao gầy rú lên thảm hại, ôm vết thương ngã quỵ.
Trước đó Tử khuê đã kịp thu kiếm, đảo thân trên kịp tránh chiêu của kẻ địch
thứ hai, rồi quay người nghênh chiến. Nếu đường gươm và thân pháp của chàng
không nhanh như điện thì đã chẳng toàn mạng.
Hôm nay, vì một lý do bí ẩn nào đó mà Tử Khuê ra tay rất tàng nhẫn, chẳng còn
chút nhân từ nào nữa. Tuy nhiên, tử trạng và tiếng thét thê lương của nạng
nhân đã khiến kẻ giết người lần đầu phải xốn xang bất nhẫn.
Nhưng đúng lúc ấy, Kỹ trang chủ cũng khẽ kêu rên lên vì trúng một thương của
Trịnh Bá Nghiêm vào vai trái, tiếng rên kia làm cho Tử khuê nghe lòng thắt lại
bởi lo âu thương xót. Kỹ Tòng Thư chính là cậu ruột của chàng.
Đấy là nguyên nhân vì sao Tử khuê sẵn sàng đổ máu để bảo vệ ông.
Nhà họ Kỹ có sáu anh em, nhưng bốn người đã chết lúc mới vài tuổi, nên chỉ còn
lại Kỹ Tòng Thư và thân mẫu Tử Khuê là Kỹ Thanh Lam. Khi Kỹ nương lên bốn thì
xuân huyên lần lượt qua đời, Tòng Thư liền thay cha mẹ mà nuôi em gái. Ông hơn
Kỹ Thanh Lam gần hai mươi tuổi nên lúc ấy đã trưởng thành. Ơn nghĩa đó nặng
hơn núi Thái Sơn.
Lớn lên, Kỹ nương thành danh Băng Tâm Ma Nữ, giết người như ngoé, nên bị đại
ca quở trách nặng lời. Bà tức giận cắt vạt áo rồi dứt tình huynh muội rồi bỏ
đi.
Vài năm sau, khi tỉnh ngộ nhờ sự điểm hóa của Vô danh thiền sư, Kỹ nương vô
cùng hối hận hành động nông nổi, bất nghĩa với huynh trưởng lúc trước, nhưng
vì xấu hổ mà không dám quay về tạ lỗi.
Hơn hai mươi năm qua, tuy yên ấm với chồng con ở đất Hứa Xương song lúc nào
lònh bà cũng canh cánh nhớ thương người anh ruột ở Tứ Xuyên. Mười năm trước
khi bà đủ dũng khí gửi thư về cố quận thì lại chẳng nhận được hồi âm. Bà cho
rằng Tòng Thư chưa tha thứ cho mình nên không dám liên lạc nữa.
Nào ngờ Kỹ Tòng Thư đã rời quê đến đất Bào Bình này lập nghiệp.
Tử Khuê nghe mẹ mình nhắc đến đại cửu phụ hàng trăm lần, nên biết rõ tính
danh, tuổi tác và đặc điểm là bới son đỏ hình đám mây ở giữa trán. Nay tình cờ
gặp ông, Tử Khuê vui mừng khôn xiết, quyết cứu cửu phụ bằng mọi giá.
Nhắc lại Tử Khuê, thấy cậu mình bị thương thì chẳng còn dám thương xót với kẻ
thù nữa. Chàng nghiến răng xuất chiêu “Vũ Đả Lê Hoa” (Mưa vùi dập hoa lê) tung
ra hàng trăm thức kiếm dồn dập tựa mưa rào khống chế đường đao của lão hộ pháp
béo lùn rồi đâm thủng ngực.
Lão tử đã dạy rằng “Thử lưỡng giả đồng” (Hai cái cùng là một) và “Hữu vô tương
sinh” (Có và không cùng sinh). Cho nên trong kiếm đạo, bậc kiếm sĩ vô chiêu
cũng phải vận chiêu thức. Nhưng khi xuất chiêu họ tùy nghi biến hóa chẳng hề
bị ràng buộc, nên gọi là vô chiêu.
Tử Khuê cũng vậy, chàng vẫn thi triển những chiêu thức trong sở học của mình,
song kiếm ý thênh thang tự tại, tùy cơ nhi tác không chút trở ngại. Kết liễu
xong địch thủ thứ hai, Tử khuê chợt phát hiện Thiết Đảm Hồng Nhan đang nguy
ngập tính mạng, bởi một chiêu đao hợp bích cực kỳ ảo diệu của hai lão hộ pháp
Bích Huyết bang. Chàng liếc nhanh, thấy Tòng Thư chưa đến nỗi nào, an tâm tiếp
viện Tống Thụy trước.
Tử Khuê đề khí lao vút đi, chỉ một bước nhảy đã vượt khoảng cách gần hai
trượng tiếp cận mục tiêu. Tuy tăng trọng đến hơn hai chục cân nhưng Tử Khuê
vẫn nhanh nhẹn như xưa. Chàng hiểu rằng tốc độ của thân pháp là yếu tố sống
còn trong giao đấu cũng như khi đào tẩu, nên đã không ngừng khổ luyện.
Rốt cục, nhìn bề ngoài thân thể chàng to béo nhưng thực ra cơ thể chàng gồn
toàn những bắp thịt rắn rỏi và chẳng chút mở thừa. Cơ đùi nở nang mạnh mẻ hơn
giúp chàng không nặng nề vì trọng lượng đã tăng thêm.
Nhờ vậy, giờ đây Tử khuê kịp thời cứu mạng ả sư muội không biết sợ chết. Nàng
ta sắp toi mạng bởi lưỡi đao oan nghiệt của lão già không râu mé tả.
Tống Thụy đang phải đối phó với lão mặt ngựa mé hữu nên chẳng thể nào thoát
chết.
Tử Khuê biến sắc đánh liền mười tám thức gươm thần tốc, kiếm kình rít lên lanh
lảnh, tấn công vào mé trái lão không râu, lão ta rợn da gà vì đánh hơi được tử
thần, đành bỏ Tống Thụy, quay lại tiếp chiêu của kẻ mới đến. Với kinh nghiệm
giang hồ mấy chục năm, lão hiểu rằng tay non chẳng thể nào có được đường gươm
xé không gian như vậy.
Nhưng kinh nghiệm dày dạn lại không giúp lão toàn mạng vì Tử Khuê đã nhờ thế
bất ngờ mà chiếm được tiên cơ, kiếm của chàng nhanh gấp bội đao của đối
phương, trong sát na đã xuyên thủng ngực kẻ xấu số. Tiếng rên la thảm não của
lão không râu, khiến cho lão mặt ngựa chấn động tâm cang, đường đao hơi rối
loạn và lộ sơ hở.
Thiết Đảm Hồng Nhan chẳng bỏ lỡ cơ hội ngàn vàng, thọc kiếm vào vùng bụng
trống trải của kẻ thù. Là kẻ giàu kinh nghiệm, sau khi đâm thủng gan ruột của
địch nhân, Tống Thụy lập tức thu kiếm và lùi lại vì lão mặt ngựa có thể dồn
toàn lực vào đao cuối cùng, do đó nàng tình cờ xô phải Tử Khuê ở phía sau,
chàng sợ nàng thất thế nên đã chực hờ, sẵn sàng tiếp cứu.
Cú va chạm khá mạnh nên Tử Khuê phải trụ tấn và ôm chặt giai nhân, bàn tay tả
của chàng vô tình áp lên ngực phải Thiết Đảm Hồng nhan khiến cho ả thẹn chín
người.
Tống Thụy chưa kịp cảm nhận hết vị ôn nhu của sự tiếp xúc ngọt ngào ấy thì Tử
Khuê đã buông ra, lao vút về phía Bang chủ Bích Huyết bang Trịnh Bá Nghiên,
vừa đâm thêm một thương vào đùi Kỹ Tòng Thư.
Họ Trịnh đã mục kích cảnh chàng đả thương Âu Dương Mẫn và sát hại ba hộ pháp
của mình nên rất tức giận. Nhưng đồng thời gã lại chẳng dám coi thường, đành
bỏ Kỹ lão quay sang đón tiếp Tử Khuê bằng một đường thương vũ bão.
Thương, giáo, kích, trường đao, trường côn, đinh ba... là loại binh khí dài,
rộng, tần sát thương rộng, đòn đánh rất mãnh liệt. Nhưng cũng chính vì chiều
dài và trọng lượng mà chúng luôn chậm hơn đoản binh như đao kiếm. Dẫu cho
Trịnh Bá Nghiêm là học trò của Thương Thánh thì khuyết điểm ấy vẫn tồn tại. Và
“Thao Quan Thần Thất” chính là khắc tinh của mọi loại trường binh.
Tử Khuê không dám thò tay chụp đao kiếm nhưng hoàn toàn có thể khóa cứng một
đường thương. Năm xưa, sư phụ chàng, Vu Mộc chân nhân đã từng đến Hồ Nam, bịt
mặt so tài với Nam Thiên Tôn Từ Tôn Chiến. Tuy tay không mà ông vẫn cầm cự
được hai ngàn chiêu, sau đó trá bại bỏ đi. Về đến Vũ Lương sơn, Chân nhân
nghiền ngẫm, nghiên cứu suốt một năm ròng, tìm ra nhưng chiêu thức đặc biệt để
hóa giải thương pháp của họ Từ.
Giờ đây, Tử Khuê kế thừa tuyệt học ấy thản nhiên cử kiếm chống đỡ những thế
thương ác liệt ấy của Trịnh Bá Nghiêm và tay tả bất ngờ khoa nhanh, vẽ nên
những vòng tròn kỳ ảo, bám lấy đầu thương rồi chụp lấy đoạn cán thép ở sát
phần mũi thương sắc bén.
Tử khuê chẳng dại gì giành giật cây thương khi đối phương đang cầm bằng hai
tay. Chàng chỉ thuận thế kéo Bá Nghiêm về phía mình rồi tràn tới nhanh tựa cơn
lốc thọc bốn kiếm vào người gã.
Bá Nghiêm thất kinh hồn vía vội buôn vũ khí, phiên thân tránh né. Gã đã dày
công khổ luyện suốt hai mươi mấy năm nên bản lãnh cao cường, phản ứng thần tốc
nên nhờ vậy mà thoát chết, chỉ bị thương nơi vai tả. Vết thương không nguy
hiểm đến tính mạng nhưng đã khiến tay trái gã tạm thời bị phế. Khổ thay người
sử dụng thương phải cầm cả hai tay, què một coi như cũng tiêu đời.
Trịnh Bá Nghiêm chẳng còn chút dũng khí nào nữa, bỏ của chạy lấy người. Tử
Khuê không thèm truy đuổi, quay lại tìm đại cửu phụ.. Tòng Thư đang được Thiết
Đảm Hồng Nhan băng bó vết thương bằng vạt áo của chính nàng xé ra.
Tống Thụy mỉm cười, ánh mắt đầy vẻ khâm phục :
Thì ra vũ khí của Bang chủ Bích Huyết bang vẫn còn nằm trong tay chàng, Tử
Khuê tra kiếm vào vỏ, cười đáp :
Kỹ Tòng Thư nãy giờ chăm chú quan sát chàng trai râu rậm, bỗng nhận ra nụ cười
cởi mở thân mật kia cảm thấy thân thiết lạ lùng. Ông run giọng hỏi :
Tử khuê bước đến thật sát kề tai ông mà nói :
Kỹ Tòng Thư tin đã tám phần, song vẫn cẩn thận hỏi lại :
Tử khuê đỏ mặt đáp :
Kỹ Tòng Thư mừng muốn sa lệ, định ôm cháu mà không dám, ông chỉ nghẹn ngào bảo
:
Thiết đảm hồng nhan nghe tất cả, giận dỗi trách Tử Khuê :
Tử khuê cười gượng :
Tống Thụy hài lòng vui vẻ nói :
Tử Khuê không hiểu nhưng Tống Thụy nhận ra ngay ẩn ý của câu nói đó, nàng thẹn
đỏ mặt vội vàng thúc ép Tử Khuê tiến bước.
Nãy giờ họ trao đổi được vài câu ngắn ngủi như thế là nhờ có sự bảo vệ của mấy
chục gia đinh nhà họ Kỹ. Tòng Thư đối xử với đệ tử thủ hạ rất hậu nên bọn
chúng trung thành tuyệt đối, chết chẳng sờn lòng. Họ biết rằng nếu mình có
mạng vong thì thê tử sẽ được Kỹ gia trang nuôi dưỡng chu đáo.
Giờ đây khi nghe Kỹ trang chủ cao giọng ra lệnh, họ lập tức tập trung thành
đội ngũ quanh ông, vừa đánh vừa tiến theo nhịp độ phá vây của hán tử áo xanh,
râu rậm. Họ không biết người ấy là ai song trong lònh kính phục vị anh hùng
cái thế. Ngay cả năm vị Chưởng môn nhân bạch đạo cùng mấy trăm đệ tử cũng phải
lắc đầu thán phục thấy Hàn Thiếu Lăng đả thương và tước vũ khí của Bang chủ
Bích Huyết bang chỉ với một chiêu.
Thất Bổng Cái là người tự hào lai lịch, lộ số võ công ngàn nhà, nay không nhận
ra môn hộ của Hàn Thiếu Lăng, nên vò đầu bứt tóc vừa chửi vừa khen :
Bang chủ Cái bang là con sâu rượu, nên lời thề ấy đối với lão là độc địa nhất.
Võ Đương Thần Kiếm Mộ Duy Lộ cũng có mặt chốn này. Sau lễ thượng thọ sư phụ là
Vân Thiên Tử, Mộ Duy Lộ đã lên đường đi Nhưỡng Thành để tìm Đông Nhạc Tiên Hồ.
Khi dừng chân qua đêm ở huyện Bảo An Định, gã ghé thăm một thanh lâu nổi tiếng
để mua vui. Khủng khiếp thay, ngay đêm ấy gã phát hiện mình bị liệt dương. Mặc
cho ả danh kĩ hoa nhường nguyệt thẹn, thân hình bốc lửa kia trổ hết ngón nghề
của làng chơi, “thần thương” của Mộ Duy Lộ cứ vẫn ỉu xìu như cọng bún thiu.
Gã chết điếng người, tưởng như bầu trời sụp xuống đầu mình, tuyệt vọng rời
thanh lâu trong ánh mắt khinh thị, giễu cợt của bọn kĩ nữ.
Thế là Mộ Duy Lộ chẳng còn lòng dạ nào mà đi đến chỗ hẹn với Đông Nhạc Tiên Hồ
ở Nhưỡng Thành nữa. Gã cấp tốc quay về núi Võ Đương, khóc lóc, van nài Vân
Thiên Tử chữa trị giùm.
Sư phụ gã chẩn mạch cẩn thận và an ủi học trò rằng bệnh này rất dễ chữa, chỉ
cần gã chuyên cần rèn luyện nội công “Võ Đương tâm pháp” trong ba năm, ngày
ngày uống thuốc là sẽ lành bệnh.
Từ đó, Mộ Duy Lộ trở thành một đệ tử siêng năng, cần mẫn và có đạo đức không
chê vào đâu được. Gã chẳng bao giờ nhìn ngắm hay cười cợt với bọn nữ đồng môn,
lúc nào cũng trang nghiêm, đạo mạo tựa bậc cao tăng đắc đạo vậy.
Nhưng đêm về, gã mân mê khúc thịt thừa vô dụng rồi thở dài thườn thượt và oán
trời, trách đất chẳng tiếc lời.
Hôm nay, Mộ Duy Lộ chứng kiến cảnh Hàn Thiếu Lăng hiển lộng thần oai, được
người người thán phục, ca ngợi thì lòng vô cùng tức tối. Gã càng đố kỵ đến
điên người khi thấy Thiết Đảm Hồng Nhan cứ bám lấy họ Hàn mà vào sinh ra tử.
Mộ Duy Lộ đã từng tán tỉnh Tống Thụy nhưng không thành công.
Con nha đầu ấy đã dửng dưng trước dung mạo tuyệt thế cũng như tài sản kếch xù
của gã.
Với tâm trạng xấu ấy, Mộ Duy Lộ buột miệng gièm pha :
Sau khi biết học trò cưng của mình vì nữ sắc mà bán rẻ tông môn, Vân Thiên Tử
rất đau lòng và không còn ưu ái Mộ Duy Lộ nữa. Nay nghe y giở thói tiểu nhân,
buông lời đố kỵ kẻ hơn mình, Vân Thiên Tử bực bội nạt :
Mô Duy Lộ hổ thẹn vòng tay nhận lỗi rồi lùi về phía sau.
Y đi rồi, Đại Giác thiền sư, Phương trượng Thiếu Lâm tự bỗng thở dài :
Tùng Xuân Tử, Giáo chủ Toàn Chân giáo buồn rầu ứng tiếp :
Thất Bổng Cái bực mình chửi đổng :
Bang chủ Cái bang là bằng hữu chí thân của Cửu Hoa Thánh Y nên mới dám phê
phán nặng như thế Chợt Trúc Lâm Tử reo lên :
Các Chưởng môn nhân đang đứng trên một gò đất khá cao nên quan sát trận địa dễ
dàng.
Quả đúng vậy, Âu Dương Mẫn bị gãy xương và rách màng phổi bên trái, mỗi lần hô
hấp là đau đớn, võ công chỉ còn một nửa. Trong khi đó, Dương Tố Vy được sự hỗ
trợ của sáu đầu lĩnh võ nghệ cao cường nên đã chiếm thượng phong. Là kẻ gan
hùm cái thế, Âu Dương Mẫn hiểu rõ rằng mình đã thất bại, cưỡng cầu chỉ tổ
thiệt thân. Lão ta bèn xuất kỳ chiêu, đả thương một hộ pháp Chiết Mai bang rồi
rút quân.
Ba trăm kiếm thủ Tổng đàn giờ chỉ còn lại hai đội ngũ chỉnh tề, theo Minh chủ
phá vây. Y như Huyết Mai hội chủ năm xưa, Âu Dương Mẫn phóng tay chém giết
hung hãn như cọp cùng đường chẳng ai có thể ngăn bước.
Không còn trở ngại nào khác, Dương Tố Như kéo dốc thủ hạ đến hợp lực với Bích
Huyết bang để đoạt linh kỳ.
Trước đó, Trịnh Bá Nghiêm đã quay lại tấn công bọn Tử Khuê để rửa hận.
Gã mang theo phó tướng của mình và những thủ hạ kiêu dũng nhất. Bản thân họ
Trịnh cũng tham chiến với vũ khí là một thanh trường kiếm lúc nãy đeo lủng
lẳng ngang hông.
Người sử dụng trường binh thường có thói quen mang thêm đao hoặc kiếm. Lý do
là vì thương giáo rất cồng kềnh, nặng nề. Không thể lúc nào cũng mang kè kè
bên mình được. Chẳng lẽ đi dạo phố hay dự tiệc mà cũng vác thương theo. Hoặc
giả khi phải chiến đấu trong một môi trường chật hẹp, vướng víu như rừng cây
chẳng hạn thì vũ khí dài rất bất lợi. Cho nên, ngay cả Nam Thiên Tôn Từ Tôn
Chiến cũng phải đeo gươm, cả Trịnh Bá Nghiêm cũng thế. Tất nhiên, kiếm pháp
của họ không lợi hại lắm.
Trường hợp của Tử Khuê thì ngược lại, chàng chuyên luyện quyền kiếm song vẫn
biết qua loa phép đánh vài loại trường binh, và khá thông thạo thương thuật,
côn thuật. Điều này xuất phát từ quá trình hoàn thiện pho “Thao Quang thần
thức” của Vu Mục chân nhân. Sư phụ chàng đã dồn tâm huyết một đời vào việc
biến pho “Nga Mi đạo quyền” thành một tuyệt học có một không hai, hơn cả Thiếu
Lâm “Thập Bát La Hán quyền” hay “Võ Đương trường quyền”.
Pho quyền này sẽ giúp người võ sĩ chống chọi được cả với binh khí, dù dài hay
ngắn.
Binh pháp Tôn Tử có câu: “Tri kỷ bi kỷ, bách chiến bách thắng”. Vì vậy, Chân
nhân đã phải nghiên cứu phép đánh của rất nhiều loại vũ khí để tìm ra cách
khắc chế.
Riêng đối với pho “Hoàng Long thương pháp” và pho “Thiếu Lâm trường côn”, ông
đã phải lao tâm khổ tứ hàng năm trời. Với trí tuệ mẫn tiệp phi thường, Chân
nhân đã tự tái hiện từng chiêu thức ảo diệu nhất của đối phương và giải phá.
Khi truyền nghề cho Tử Khuê, Vu Mộc chân nhân đã dạy luôn những gì mình thu
hoạch được của thiên hạ. Điều này chẳng phải là vô ích vì thế sự vốn vô
thường, bất trắc, không thể lường trước được. Biết đâu có lúc Tử Khuê không
còn trường kiếm trong tay, phải vớ đại đoạn tre gỗ nào đó, hoặc đoạt lấy vũ
khí của kẻ địch mà sử dụng.
“Thao Quang thần thức” dù tuyệt diệu đến mấy cũng sẽ kém hiệu quả trong một
cuộc hỗn chiến với số đông. Bởi những hạn chế ấy của quyền thuật mà người ta
đã chế tạo ra vũ khí và dùng trong chiến tranh.
Trường thương là loại binh khí cực kỳ lợi hại chốn xa trường. Xưa kia, đại
tướng của Lưu Bị là Triệu Vân, tức Thường Sơn Triệu Tử Long, một thương một
ngựa xông pha giữa vạn quân như chốn không người. Và trong sử sách Võ Lâm còn
kể rằng lúc trận giữ thành Tương Dương, vị đại hiệp thực thà Quách Tĩnh cũng
đã dùng thương mà đánh nhau với quân Mông Cổ. Mặc dù bình thường ông quen xài
kiếm hơn.
Tóm lại, Tử Khuê rất có lý khi sử dụng cây kim thương của Trịnh Bá Nghiêm khi
phá vây. Tuy chàng chỉ biết bảy chiêu thương và tám chiêu trường côn song cũng
tạm đủ. Thứ nhất là vì phép đánh trường côn chính là căn bản của thương thuật.
Để tăng khả năng sát hại, người ta đã gắn thêm mũi thép sắc nhọn vào đầu gậy
mà tạo ra thương và giác. Từ đó mà thương pháp có nhiều thức đâm hơn côn pháp.
Bảy cộng tám là mười lăm, song với một kẻ đã thấu hiểu đạo biến hóa của võ học
thì mười lăm chính là vô số. Đương nhiên Tử Khuê sẽ ngượng tay vì không quen
và chẳng đạt đến mực thượng thừa của thương thuật như Trịnh Bá Nghiêm.
Nhưng đám bang chúng tép riu của Bích Huyết bang thì Tử Khuê thừa sức quét
văng đi bằng một thế công cực kỳ dũng mãnh. Kim thương nặng gần chục cân được
vũ lộng bằng đôi bàn tay với những bắp thịt nở nang, rắn chắc nên khí thế hùng
hậu phi thường đao kiếm của bọn thủ hạ Bích Huyết bang chạm phải đường thương
thì lập tức văng khỏi, bàn tay rướm máu. Tử Khuê luyện cả nội công, ngoại
công, sức lực hơn hẳn Trịnh Bá Nghiêm.
Tử Khuê hứng chí xông lên, trường thương bay lượn vun vút tựa dải lụa vàng,
kình phong xé gió vù vù, dọa khiếp phe địch.
Về mặt tâm lý thì bọn đệ tử Bích Huyết bang đã có phần khiếp sợ Tử Khuê. Khi
thấy chàng sử dụng vũ khí của thượng cấp mình. Bang chủ còn thua thì thủ hạ
nào thấm thía gì với đối phương? Lại thêm bằng chứng hiển nhiên là đường
thương vũ bão đầu tiên, nên chúng chẳng dại gì đương cự mà mang họa.
Thế là vòng vây trước mặt Tử Khuê ngoan ngoãn dãn dần ra, theo từng bước chân
của chàng, Tử Khuê đánh hết mười lăm chiêu, đưa đoàn người tiến lên được bốn
trượng, chỉ còn cách cổng Quách gia trang ba trượng nữa thì nghe Trịnh Bá
Nghiêm quát vang :
Bọn bang chúng sợ hãi liều mạng xông vào tấn công Tử Khuê, không dám nhường
đường nữa. Tử Khuê múa tít kim thương đánh bạt chúng ra và suy nghĩ :
Chàng lùi lại, ra hiệu cho Tống Thụy thay thế mình rồi đến sát Kỹ Tòng Thư mà
nói nhanh :
Chúng ta vào trong cũng vô ích. Tiểu điệt sẽ cố mang “Diêm Vương lệnh kỳ”
đến giao cho Hội đồng Võ lâm, có như thế mới giải được tai họa.
Kỹ lão thấy đệ tử thương vong khá nhiều, hiểu rằng mình đánh nữa sẽ chẳng
còn một mống. Và nếu ông cố giữ Quỷ kỳ thì Kỹ gia trang không một ngày yên ổn.
Vì vậy, Tòng Thư đồng ý ngay, trao cây cờ báu cho cháu trai.
Từ Khuê nhận lấy, giơ cao lên phất và quát lớn :
Sau đó Tử Khuê thu ngắn cánh cờ, cuộn mảnh lụa tam giác lại, giắt vào thắt
lưng rồi múa thương đánh thốc về hướng Tây, nơi mà các phái Bạch đạo đang đứng
như phỗng.
Lúc này, Trịnh Bá Nghiêm và lão Phó bang chủ râu dài đang tiến vào từ hướng
Nam, còn cách xa đội ngũ của Kỹ trang chủ mấy trượng. Thấy phòng tuyến hướng
Tây khá mỏng, Bá Nghiêm vội quát :
Thế là bọn thủ hạ của gã bỏ chỗ cũ, ùn ùn kéo về hướng tây, bổ sung quân số
cho vị trí quan trọng. Ngay cả bốn lão hộ pháp trước giờ canh giữ trước cổng,
nay cũng bỏ nghề.
Thiết Đảm Hồng Nhan bảo Kỹ lão :
Kỹ Tòng Thư gật đầu và dặn dò :
Tống Thụy ôm quyền chào rồi phi thân về hướng Tử Khuê đang tả xung hữu đột.
Phe đối phương muốn cầm chân chàng nên tập trung rất dày ở trước mặt, sau lưng
cũng có nhưng không nhiều. Nhờ vậy, Thiết Đảm Hồng Nhan có thể phá vây, vào
với Tử Khuê.
Thấy nàng, Tử Khuê vô cùng cảm động và yên tâm mở đường máu vì đã có người che
chắn mặt sau lưng. Đối thủ lúc này của chàng gồm Trịnh Bá Nghiêm, Dương Tố Vy
và lão nhân râu dài Phó bang chủ Bích Huyết bang.
Chung quanh đấu trường là sáu trăm thủ hạ của hai bang hội Chiết Mai, Bích
Huyết. Họ tập trung nhiều ở hướng tây để đề phòng sự tham chiến của phe Bạch
đạo. Tuy lực lượng này chỉ độ hơn hai trăm song đều là tay khá nhất là năm vị
Chưởng môn nhân và Thập Bát La Hán Thiếu Lâm tự. Nhưng với oai phong của Bắc
Thiên Tôn và Nam Thiên Tôn chưa chắc bọn hòa thượng, đạo sĩ, ăn mày ấy dám
tham chiến. Bằng chứng là từ đầu đến giờ họ cứ bình chân như vại.
Nhưng sự thực lại khác với dự đoán của Trịnh Bá Nghiêm và Dương Tố Vy, Vân
Thiên Tử Chưởng môn nhân phái Võ Đương đã vận công quát vang :
Hội đồng sẽ thu nhận “Diêm Vương quỷ kỳ” và hủy hoại ngay tại chốn này.
Dương Tố Vy bỏ trận địa, nhảy lên đứng trên vai ả nữ thủ hạ to con rồi khôn
khéo đáp :
Vân Thiên Tử bối rối, chẳng biết phải giải quyết thế nào thì được một nữ đồ đệ
đứng bên hiến kế. Vị đạo cô ấy là đệ tử nhỏ nhất của ông, đứng hàng thứ tám
đạo danh Linh Tuệ. Nàng ta tuổi mới đôi chín, tính tình hiền lành, vui vẻ
nhưng đầu óc thông minh tuyệt thế, mẫn tiệp phi thường.
Khác với Mộ Duy Lộ, Linh Tuệ đến Võ Đương không một xu lễ vật mà vẫn được làm
đệ tử của Chưởng môn nhân, tức đời thứ hai. Đáng lẽ, nàng ta phải làm đệ tử
đời thứ ba mới đúng quy củ. Nhưng chẳng ai ganh ghét với Linh Tuệ cả vì nàng
là cháu gọi Vân Thiên Tử bằng chú ruột. Vả lại, Linh Tuệ rất dễ mến, được cả
phái yêu thương. Và nàng chính là người duy nhất cổ vũ cho Tử Khuê trong trận
so tài với Mộ Duy Lộ ở Quang Hóa.
Giờ đây, cô nàng có cặp mắt tinh đời ấy rỉ tai mách nước cho sư phụ.
Nghe xong, Vân Thiên Tử hớn hở cao giọng trả lời Dương Tố Vy :
Câu nói khách sáo ấy chính là lời nhắc nhở Tử Khuê mau phá hủy linh lỳ.
Chàng trai xui xẻo của chúng ta tuy hơi thật thà nhưng không đến nỗi ngốc. Tử
Khuê liền tỉnh ngộ, quét một thương sấm sét, đẩy lùi những đối thủ của mình.
Và bất ngờ phóng thẳng kim thương vào người lão Phó bang chủ Bích Huyết bang.
Lão ta không dám né tránh sợ hại mạng bọn thủ hạ phía sau, đành vung đao chặn
lại.
Đao pháp của lão rất linh diệu nên đã đánh rơi được mũi ám khí to đùng ấy
xuống đất. Nhưng Tử Khuê đã lợi dụng khoảnh khắc nọ mà rút Diêm Vương quỷ kỳ
ra, kéo dài cán thép, sử dụng như một thanh kiếm thứ hai bên tay trái.
Chàng có thể dùng tả thủ đánh những chiêu quyền, trảo, phối hợp với trường
kiếm bên tay hữu thì việc múa cờ bằng tay trái chẳng phải là khó.
Nghĩa là Tử Khuê đã không làm theo lời nhắc nhở của Chưởng môn phái Võ Đương
mà lại dùng sự toàn vẹn của “Diêm Vương quỷ kỳ” để phá vây. Phe địch rơi vào
thế “Ném chuột sợ vỡ đồ quý” sẽ phải nhường đường. Chàng muốn thay thân mẫu
báo đáp đại ân dưỡng dục của Tòng Thư nên cố gắng hoàn thành tâm nguyện của
ông là bảo toàn linh kỳ, sau này trao cho người tài đức.
Vậy phải chăng Tử Khuê thầm cho rằng mình là vị tướng tinh giáng phàm ấy?
Không phải vậy, từ sau lần thất bại trước hồn ma của Lỗ phán quan ở Trình gia
trang, chàng không còn chút ảo tưởng nào vào cái gốc gác thần tiên của mình
nữa.
Tử Khuê là người thẳng thắn, khoáng đạt, nên chẳng thèm để ý đến chúng nữa.
Nhưng ma quỷ và thuật bói toán là hai mặt hiển nhiển nhiên tồn tại của văn hóa
Trung Quốc mấy ngàn năm nên Tử Khuê chấp nhận được. Do đó, chàng không thắc
mắc vì sao Cửu Hoa Thánh Y nhận ra mình dù chưa hề gặp gở. Còn ma thì chàng đã
gặp rồi.
Nhắc lại, với chủ ý ấy, Tử Khuê ung dung lao vút về phía trước. Dùng linh kỳ
đâm Trịnh Bá Nghiêm ba nhát. Họ Trịnh không dám dùng thanh gươm được mài sắc
như dao cạo của mình chống đỡ, đành phải thoái hậu. Gã sợ chém rách cờ báu thì
uổng công lao kéo quân đến đây và không hoàn thành sứ mạng do Thiên Tôn đã
giao phó. Họ đã ra lệnh cho gã và Tố Vy chiếm cho bằng được “Diêm Vương quỷ
kỳ”.
Đẩy lùi được Bá Nghiêm, Tử Khuê yên tâm xông vào tấn công lão Phó bang chủ
Bích Huyết bang. Tuy là phó nhưng bản lĩnh lão ta còn cao hơn họ Trịnh. Thất
Hoàn Đao Hướng Vụ Quan năm nay đã sáu mươi sáu tuổi, có tài đánh đao siêu
việt, hùng cứ đất Hành Dương đã mấy chục năm. Hướng lão mở trường dạy đao
thuật, lấy tên là “Bá Đao đường”, đệ tử động đến gần ngàn.
Hướng Vụ Quan vốn không có tham vọng lớn lao, bằng lòng với vai trò bá chủ
vùng đông nam tỉnh Hồ Quảng (Gồm Hồ Bắc và Hồ Nam hiện tại). Nhưng do từng
chịu ơn cứu mạng của Nam Thiên Tôn Từ Tôn Chiến nên Hướng lão đã khuất thân
làm phó cho Trịnh Bá Nghiêm. Ông còn đưa mấy trăm học trò giỏi của mình đến
gia nhập Bích Huyết bang, tạo thành lực lượng nòng cốt của tổ chức non trẻ
này.
Tử Khuê nhờ bảy vòng thép rủng rẻng trên sống đao đối phương mà nhận ra lai
lịch lão gì có gương mặt chữ điền cương nghị kia. Tuy biết Thất Hoàn Đao không
phải là kẻ ác, song đã ở thế đối đầu thì chàng chẳng thể nương tay. Tử Khuê
trận trọng xuất chiêu “Tường Vân Long Hiện” (Rồng hiện trong đám mây lành).
Vầng kim ô đã khuất sau rặng núi xa xăm cuối trời tây, chỉ còn lại chút nắng
vàng hiu hắt nhuộm dở dang những đám mây trắng lững lờ. Những tia nắng ấy
không đến được đấu trường đẫm máu này để tô điểm cho màn kiếm ảnh dày đặt của
Tử Khuê tạo ra một đóa mây lành rực rỡ.
Nhưng chẳng vì thế mà chiêu kiếm giảm phần lợi hại, tám mươi sáu thức đâm như
chớp giật vẫn khiến cho Thất Hoàn Đao phải rợn tóc gáy. Lão ta cẩn trọng đón
đỡ bằng một chiêu đao cực kỳ thận trọng và hùnh mạnh “Hướng gia đao pháp” vốn
nổi tiếng võ lâm về tính trầm ổn, vững vàng. Bản đao rộng gấp đôi bảo kiếm nên
khi phòng thủ thì bội phần kín đáo. Hơn nữa, Hướng Vụ Quan luyện võ rất sớm,
cả đao pháp lẫn công lực đều thâm hậu. Nhờ vậy, lão cản phá được gần hết những
thế công của Tử Khuê.
Nhưng Hướng Vụ Quan không ngờ rằng gã tiểu tử râu rậm kia lại có thể sử dụng
hai tay cùng một lúc, dùng “Diêm Vương quỷ kỳ” thọc liền năm thức thành năm
đòn đâm nhanh tựa độc xà thểm điện. Nên Hướng lão chỉ có thể rút chân trái về
và dùng đao che chắn thân phải Khổ nỗi là lão cũng không dám hủy hoại cờ báu
nên đành phải nhắm vào đoạn thép ở mũi cán cờ mà va chạm. Đã phân tâm đếm mức
ấy thì đường đao không thể nhanh và kín như thường lệ được. Thế là lão trúng
một kiếm của đối phương vào sườn tả.
Vết thương không nặng nhưng cũng đủ khiến Thất Hoàn Đao nản chí rời vị trí,
nhường đường cho kẻ địch. Đánh nhau mà phải kiêng dè đủ thứ thì thà không đánh
còn hơn.
Trịnh Bá Nghiêm cũng hiểu hoàn cảnh éo le ấy nên không hề trách móc vị lão
tướng của mình. Gã bực bội xông vào tấn công Thiết Đảm Hồng Nhan vì nàng bám
sau lưng Tử Khuê, mà vượt lên. Thất Hoàn Đao thấy thế cũng hợp lực cùng Bang
chủ, cho rằng nếu bắt được Tống Thụy thì gã rấu rậm kia sẽ phải dùng linh kỳ
để đổi con tin.
Hướng lão dồn toàn lực xuất chiêu “Bạt Sơn Đảo Hải”. Đường đao mãnh liệt phi
thường, quyết chặt gãy hoặc đánh văng bảo kiếm của ả họ Tống.
Nếu là đơn đấu một chọi một thì Thiết Đảm Hồng Nhan còn có thể tránh né va
chạm và đối phó chiêu dao dữ dội ấy bằng những thế đâm nhanh qua sơ hở, là sở
trường của kiếm. Nhưng lúc này, nàng đang phải đọ kiếm với Trịnh Bá Nghiêm nên
chỉ còn cách chặn đường đao rồi thoái hậu.
Chẳng phải ngẫu nhiên mà người đời gọi nữ nhân là phái yếu, trời sinh họ ra
với khung xương nhỏ nhắn, cơ bắp mềm mại, chẳng phải để đánh nhau.
Những tạo vật mỹ miều đáng kính ấy có nhiệm vụ cao quý là sinh sản, bảo tồn
nòi giống nhân loại. Chỗ thích hợp của họ là một ngôi nhà ấm cúng, một cái
giường trải nệm êm, hoặc là một cái bàn thờ trên đầu đức ông chồng râu quặp.
Nghĩa là trừ trường hợp giặc đến nhà đàn bà cũng đánh, họ đừng nên vác tấm
thân nõn nà, mềm mại của mình ra chốn đầu gươm mũi giáo.
Do sự thua thiệt bẩm sinh ấy mà năm ngón tay búp măng của Tống Thụy đã không
giữ nổi chuôi kiếm khi va chạm với nhát Đao nặng như núi Thái của Hướng lão.
Hổ khẩu nàng rách toạc, trường kiếm văng ra và gò nhũ phong bên trái bị mũi
đao rạch một đường không sâu lắm.
Nữ nhân quý trọng nhất là gương mặt của mình, sau đó chính là bộ ngực.
Bởi thế, dẫu có là cọp cái thì Tống Thụy cũng phải kinh hoàng rú lên, vì đau
thì ít mà hoảng hồn thì nhiều. Nàng tưởng rằng một chỏm ngọc phong đã bị chặt
cụt, tan nát đời mỹ nữ.
Do thoái hậu quá gấp nên lưng nàng đã chạm lưng Tử Khuê. Nghe tiếng rú của sư
muội, Tử Khuê kinh hãi đảo bộ quay ngoắt lại che cho nàng đối diện với Thất
Hoàn Đao và Trịnh Bá Nghiêm. Chàng đâm liền năm thất như mưa xa để ngăn cản
rồi trao “Diêm Vương quỷ kỳ” cho Tống Thụy sử dụng.
Tống cô nương hoàn hồn, sau khi sờ lên ngực yên tâm vì núm vú hồng hồng xinh
xắn vẫn còn nguyên. Nàng vừa điểm huyệt chỉ huyết, vừa vung cờ chống chọi với
Dương Tố Vy ở trước mặt. Nàng ta dãn ra ngay vì sợ làm rách cờ.
Thiết Đảm Hồng Nhan cao hứng tràn lên, quét rộng linh kỳ, tiến rất nhanh.
Dương Tố Vy và bọn thủ hạ chẳng đủ bản lãnh đả thương người mà không làm hại
đến lá cờ nên đành bó tay.
Lúc này, cục diện chiến trường có diễn biến mới. Kỹ trang chủ đã băng bó vết
thương xong, cùng thứ nữ là Kỹ Lưu Tiên kéo lực lượng gia đinh ra hỗ trợ Tử
Khuê.
Họ đã xuất trang bằng lối sau vòng sang hướng Tây và bất ngờ đánh tập hậu phe
đối phương. Gần hai trăm cây cung chia hai đợt mà buông tên với lòng căm thù,
giận dữ nên đã thu hoạch không nhỏ. Có đến bảy tám chục gã thủ hạ của hai bang
Chiết Mai-Bích Huyết bị trúng đòn, kêu gào thảm thiết.
Kỹ Tòng Thư là người thích săn bắn, thuật xạ tiễn rất cao cường. Kỹ gia trang
lại tọa lạc đơn độc ở một vùng vắng vẻ, chung quanh là vườn cây bạt ngàn, nên
ông đã chú tâm dạy nghề bắn cung cho các gia đinh. Cung tiễn là thứ vũ khí
phòng thủ hoặc tấn công từ xa rất hữu hiệu.
Trận này, Kỹ lão đã tổn thất một phần ba quân số, song lực lượng còn lại càng
thêm kiêu dũng, vì muốn báo thù cho đồng đội.
Họ là những nông dân chất phác trong vùng, sống bằng nghề chăm sóc vườn tược
đã bao đời. Khi Kỹ Tòng Thư mua lại ngàn mẫu vườn này, không những tăng lương
cho họ mà còn dạy võ nghệ, kiếm cung, khiến ai cũng vô cùng cảm kích.
Họ rất giận dữ khi người ngoài ngang nhiên đến cướp đoạt một vật nằm trên bàn
thờ nhà họ Kỹ đã mười năm. Nếu vì lá cờ kia có thể giết người mà phải hủy bỏ
thì có khác nào cần phải thiến hết đàn ông trong thiên hạ để không còn tội
cưỡng dâm. Thiện ác do lòng người chứ nào phải do vật?
Họ không quen việc bắn vào đồng loại nên đầu trận hơi run tay, nhưng giờ thì
ai nấy lạnh lùng buông từng mũi tên chính xác đến không ngờ. Kẻ đứng người
quỳ, thay nhau bắn vào những kẻ hung ác đang xông đến.
Bọn đầu lĩnh hai bang Bích Huyết-Chiết Mai ỷ vào bản lĩnh cao cường cố vượt
trận mưa tên, dẫn quân tiến lên. Mười mấy gã Hộ pháp, Đường chủ ấy đều là cao
thủ thành danh, thừa sức dùng vũ khí đánh bạt những mũi tên không bọc sắt, bắn
ra từ những cây cung nhỏ.
Cung vốn có hai loại. Trường cung có cánh dài độ sải tay, bắn ra những mũi tên
dài nặng, đầu bọc sắt, bay rất xa và có thể xuyên thủng giáp võng.
Nhưng loại này đòi hỏi sức lực mạnh mẽ, thường chỉ dùng trong chiến trận.
Loại thứ hai là đoản cung, cánh ngắn và mỏng hơn, tên cũng nhẹ và ít khi bọc
mũi. Đoản cung bắn gần rất tốt, tiện lợi hơn trường cung.
Năm xưa, mỗi kỵ binh Mông Cổ đều được trang bị cà hai loại cung này và tài xạ
tiễn của họ đã tạo nên một đế quốc rộng lớn nhất trong lịch sử nhân loại.
Nhưng đám gia đinh Kỹ gia trang chẳng phải người Mông. Họ chỉ có thể sử dụng
đoản cung và do bọn cường đạo không bao giờ mặc áo giáp nên tên của họ chẳng
bọc mũi bằng kim loại làm gì. Vì vậy, mười bảy gã hung thần đã an toàn đến
nơi, tấn công quyết liệt, khiến số công thủ phải bỏ nghề, rút kiếm đương cự.
Kỹ Tòng Thư và ái nữ là Kỹ Lưu Tiên cũng xuất kiếm.
Bọn bang chúng đằng kia bị trúng tên thương vong, không tuân phục nữa, song
cuối cùng cũng đã ào đến ngày càng đông và áp đảo được phe Kỹ gia trang.
Đến nước này thì Tây Nhạc kiếm khách Lư Công Đán không còn nhẫn nhịn được nữa.
Gã chẳng thể đứng nhìn bằng hữu của phụ thân mình thảm tử.
Họ Lư lúng túng nói với Trúc Lâm Tử :
Trúc Lâm Tử buồn rầu đáp :
Tây Nhạc kiếm khách mừng rỡ kéo mười mấy gã huynh đệ chạy về hướng đấu trường,
tiếp tay cha con Kỹ Tòng Thư.
Lư Công Đán là kiếm thủ cừ khôi nên mới được xếp vào hàng “Võ lâm Ngũ tú”. Gã
vung kiếm đâm liền chín thức, đẩy lùi một trong hai gã Đường chủ Chiết Mai
bang đang uy hiếp Kỹ Lưu Tiên, giải tỏa áp lực cho nàng, rồi sánh vai người
đẹp mà chiến đấu.
Tuy không thể sánh bằng Đông Nhạc Tiên Hồ hay Thiết Đảm Hồng Nhan, song nhan
sắc Kỹ Lưu Tiên cũng thuộc hàng mỹ nữ. Nếu nàng ta không có tính cả thẹn,
thường tránh mặt khi khách đến chơi thì không chừng Lư Công Đán đã phải lòng
rồi. Trước giờ gã chỉ thấy thấp thóang bóng hồng chứ không tỏ tường mặt mũi.
Họ Lư đang thất vọng vì đánh mất hai thần tượng là Dịch Tái Vân và Tống Thụy
nên giờ đây dễ dàng xao xuyến trước một mục tiêu mới đầy hấp dẫn. Lưu Tiên
không nói lời đa tạ, chỉ đỏ mặt liếc gã bằng ánh mắt đầy cảm kích, song cũng
đủ khiến họ Lư nghe hồn rộn rã, rạo rực. Gả bèn trổ hết bản lãnh, đả thương
đối thủ của mình để khoe tài với mỹ nhân.
Sự tham chiến của Lư Công Đán và mười bảy gã cao thủ đất Nam Dương chỉ cải
thiện đôi chút thế hạ phong của phe kỹ gia trang. Nhưng may thay, Tử Khuê cùng
Thiết Đảm Hồng Nhan đã thóat khỏi sự vây hãm của kẻ thù, đến được vị trí mà
phe Bạch đạo đang đứng.
Tống Thụy hổn hển nói :
Dứt lời, nàng trao cờ báu cho Vân Thiên Tử, Chưởng môn nhân phái Võ Đương cũng
là người đứng đầu Hội đồng Võ lâm.
Vân Thiên Tử vừa nhận lấy thì bọn Trịnh Bá Nghiêm chạy đến. Họ Trịnh lộ rõ vẻ
nóng nảy nhưng Dương Tố Vy thì gian hoạt, nghiêng mình lại uyển chuyển nói :
Lúc này, Tử Khuê và Tống Thụy đang đứng phía sau với năm vị Chưởng môn nhân.
Tử Khuê liền rỉ tai Thất Bổng Cái :
Thất Bổng Cái vừa kinh ngạc, vừa mừng rỡ, đấm vào vai Tử Khuê :
Rồi lão quay sang đỡ lời Vân Thiên Tử, đối đáp với Dương Tố Vy :
Lúc này, Kỹ Tòng Thư và thủ hạ đã rút về đến cổng trang và phe địch cũng chẳng
truy đánh vì có mục tiêu mới là phe Bạch đạo.
Kỹ trang chủ nghe được câu nói của Thất Bổng Cái liền cao giọng xác nhận :
Dương Tố Vy tức tối trở giọng đe dọa các Chưởng môn nhân :
Toàn Chân trưởng giáo Tùng Xuân Tử cười nhạt đáp :
Trịnh Bá Nghiêm, Bang chủ Bích Huyết bang là người nóng nảy, hùng hổ quát :
Lời đe dọa hàm ý xem thường này đã làm cho đệ tử phái Võ Đương tức giận, nhưng
chỉ mình Linh Tuệ thì không. Nàng cười khúc khích rằng :
Bá Nghiêm giật bắn mình, buột miệng :
Linh Tuệ vui vẻ đáp :
Hai trăm đệ tử Bạch đạo phá lên cười khoái trá. Riêng năm vị Chưởng môn nhìn
nhau lo lắng, hiểu rằng hiện tượng kia chẳng hề đơn giản. Sự thoái hóa tư cách
của hai lão bất tử nọ đã phần nào giải thích được nguyên nhân vì sao họ để cho
đồ đệ mình khai bang lập phái. Hội đồng Võ lâm càng tin lời Tử Khuê, quyết
không trao “Diêm Vương quỷ kỳ” cho họ.
Đại Giác thiền sư, Phương trượng Thiếu Lâm tự nói với giọng hiền hòa nhưng
kiên quyết :
Nếu có Thánh chỉ thì bọn lão nạp sẽ dâng cờ.
Trời đã nhá nhem tối nên không ai để ý thấy một cánh chim khổng lồ đang lơ
lửng trên không trung và bất ngờ lao vút xuống từ hướng tây, tức từ phía sau
phe Bạch đạo. Trên lưng chim là một bóng người nhỏ thó như một đứa trẻ lên
mười.
Lúc con chim lượn đến vị trí trên đầu các Chưởng môn nhân, người ấy khéo léo
điều khiển cây nhuyễn tiên dài ngoằng quấn lấy cây “Diêm Vương quỷ kỳ”, đang
nằm trong tay tả Vân Thiên Tử. Thủ pháp của hắn cực kỳ chuẩn xác và nhanh đến
mức Chưởng môn nhân phái Võ Đương không sao phản ứng kịp, đừng nói chi đến
những người khác.
Khi mọi người hiểu ra có kẻ cướp cờ, la hét thất thanh thì cánh chim đã bay
vút lên cao, chỉ còn lại tiếng cười ngạo nghễ.
Thất Bổng Cái tức tối chửi vang :
Vân Thiên Tử bẽ bàng nói lời hối lỗi :
Sau này Phi Điểu Thần Ma dùng cờ báu mà tàn phá sinh linh thì bần đạo chỉ còn
cách liều chết với y để trả nợ cùng Võ Lâm.
Dương Tố Vy hậm hực trách cứ :
Dứt lời, nàng cùng Trịnh Bá Nghiêm ra lệnh rút quân vì ở lại cũng vô ích.
Ở đây các Chưởng môn nói lời an ủi Vân Thiên Tử song không sao làm cho ông vơi
đi niềm hối hận. Nhưng Tử Khuê đã cải thiện được tình hình, chàng từ tốn nói :
Kỹ trang chủ cũng đã đến nơi, vui vẻ mời cả lực lượng Bạch đạo vào trong dùng
cơm và nghỉ ngơi. Trời đã tối hẳn, ai nấy đều đói meo và nhớp nháp nên nhận
lời ngay.