Người đăng: tieulongkute
Đến cuối tháng chạp thì cậu bé Quách Tử Chiêm hoàn toan bình phục, khiến niềm
vui của Quách gia trang được trọn vẹn Kỹ nương đã có căn bản về y học, nay
được thêm quyển sách thuốc của Cửu Hoa Thánh Y nên đã cứu được con thơ.
Tử Chiêm biết mình thoát chết nhờ ai nên vô cùng yêu mến Tam ca, quấn quýt
chẳng rời.
Tử Khuê đã dâng lên song thân hai viên “Trường Thọ đan” nhưng chỉ mình Quách
trang chủ sử dụng, Kỹ nương nhỏ hơn chồng mười mấy tuổi lại có công lực thâm
hậu nên rất trẻ trung tráng kiện. Bà mà uống “Trường Thọ đan” thì e rằng Quách
lão chịu không thấu.
Hương xuân của năm Giáp Dần chưa tan thì Tử Khuê đã phải lên đường.
Tiếng rằng đi du ngoạn song thực ra là chàng chính thức dấn thân vào chốn
giang hồ.
Việc trước tiên Tử Khuê phải thực hiện là đến núi La Sơn, cạnh bờ sông Trúc
Can Hà một phụ lưu của sông Hoài.
Sứ mạng ấy xuất phát từ chiếc ghế gãy của Hồng Vận đại phạn điếm đất Nghiệp,
chứ chẳng phải do Cửu Hoa Thánh Y giao phó.
Số là thế này, trong hàng ngũ bô lão võ lâm có ba nhân vật cực kỳ lợi hại,
tuổi đã gần chín mươi, được người đời xưng tụng là Võ lâm Tam tôn. Họ gồm Bắc
Thiên Tôn ở phủ Đại Đồng tỉnh Sơn Tây, Nam Thiên Tôn đất Thiệu Dương, tỉnh Hồ
Quảng và Trung Thiên Tôn núi La Sơn, tỉnh hà Nam.
Ba vị Kỳ Nhân này võ công cái thế, song từ lâu đã không màng đến sự đời nên Âu
Dương Mẫn mới có thể hoành hành được.
Và giờ đây, Tử Khuê đến La Sơn là để bái kiến Trung Thiên Tôn Trần Ninh Tĩnh.
Lão ta hiện đang giam giữ ái nữ của chủ nhân Hồng Vận đại phạn điếm Tống
Nhiên.
Cô ả này tên gọi Tống Thụy, tuổi đã hai mươi sáu mà vẫn chưa chồng.
Không phải vì nàng ta quá xấu nên ế ẩm. Ngược lại, Tống Thụy khá xinh đẹp và
lại còn rất thông minh mẫn tiệp nữa.
Chẳng qua, cô con gái út nhà họ Tống có máu giang hồ, thích phiêu bạt đó đây
mà hành hiệp chứ không cam tâm làm một ả hoàng hoa khuê nữ.
Năm hai mươi tuổi, Tống Thụy đã học hết nghề của cha và các nghĩa thúc, liền
mang gươm xuất đạo ngay. Chỉ sau bốn năm, Tống tiểu thư đã lừng danh với cái
xú hiệu Thiết Đảm Hồng Nhan. Tuy là gái nhưng nàng có cái lối đánh nhau cực kỳ
liều lĩnh, táo bạo khiến đám nam nhân phải xanh mặt.
Mỗi năm, Tống Thụy chỉ về nhà một tháng tết, nhân dịp giỗ mẹ hiền. Tống lão có
rầy la quở mắng thì nàng chỉ mỉm cười ôn nhu chẳng hề biện bạch. Tống lão chịu
thua vì chẳng nỡ đánh đập hay xiềng xích đứa con gái mang dung mạo của người
mẹ quá cố. Tống Thụy mất mẹ từ nhỏ, lại giống Tống phu nhân như đúc nên được
cha cưng chiều nhất nhà.
Tống Nhiên vốn là một cao thủ Hắc đạo hoàn lương. Ông có ba nghĩa đệ, hai
người đã so tài quyền kiếm với Tử Khuê, người thứ ba chính là Ngụy Công Tử Tề
Thúc Như. Tống Thụy cũng là học trò của ba kẻ ấy.
Đầu năm ngoái, Thiết Đảm Hồng Nhan tình cờ lạc bước đến núi La Sơn mà không
biết đấy là chốn ẩn cư của Trung Thiên Tôn Trần Ninh Tĩnh.
Phong cảnh La Sơn lúc Xuân về cực kỳ diễm lệ, hoa tháng hai tưng bừng nở rộ.
Tống cô nương say sưa dạo chơi và thò tay định ngắt vào đóa hoa thì bị một con
chim ưng tấn công lén, mổ vào đầu đau điếng. Tống Thụy nổi giận thi triển ngay
tuyệt kỹ của cha già, phóng một mũi “Yến Vỹ châm” giết chết con chim xảo
quyệt.
Nào ngờ, nó lại là vật nuôi yêu quý của Trung Thiên Tôn và tiếng kêu lìa đời
thảm thiết của thần ưng đã đánh động chủ nhân. Trần lão liền chạy ra, tóm cổ
Thiết Đảm Hồng Nhan đem vào thạch động giam giữ.
Sau đó, Trung Thiên Tôn gởi thư cho Tống Nhiên kể rõ sự tình, bảo rằng sẽ cầm
tù Tống Thụy cho đến khi nào họ Tống tìm được mốt con chim ưng khác để bồi
thường.
Chim ưng thì chẳng thiếu, song khổ nỗi Trần Ninh Tĩnh lại đòi một con biế nhậu
và tửu lượng không dưới 1 thăng (lít).
Tống điếm chủ thương con vô hạn, liền tìm mua mấy chục chú chim ưng rồi tập
cho chúng uống rượu. Kết quả là chẳng con nào chịu uống cả và nếu miễn cưỡng
đổ vào họng chưa đến nửa thăng thì chúng lăn ra chết toi.
Tống Nhiên cùng ba vị bài đệ đành bó tay cứ nghĩ đến Tống Thụy là lòng đau như
xé. Mỗi ngày phải uống hơn thăng rượu thì hai năm sau Thiết Đảm Hồng Nhan sẽ
biến thành bạch cốt dạ xoa, dung nhan tàn tạ va sức lực mỏi mòn. Thể chất của
nữ nhân hoàn toàn không thích hợp với rượu. Họ uống chơi vài chung thì được
chứ cứ nốc tràn thường xuyên thì yểu mạng.
May thay, hồi đầu tháng mười một năm ngoái, sứ giả của Trung Thiên Tôn đến
Nghiệp thành để trao thư. Trong thư ấy, Trung Thiên Tôn yêu cầu Tống Nhiên xếp
đặt cái bẫy mà Tử Khuê đã sa vào. Và nếu cái kẻ xui tận mạng ấy chịu đến La
Sơn hội kiếm với Thiên Tôn thì Tống Thụy sẽ được thả ra ngay.
Bởi thế cho nên, Tống điếm chủ cùng ba người đệ tử khẩn khoản van nài Tử Khuê
giúp đỡ. Ngụy Công Tử Tề Thúc Như còn dùng việc làm giả Viên “Tỵ Lôi thần
châu” để uy hiếp Tử Khuê. Nếu chàng không chịu nhận lời đi La Sơn thì gã cũng
sẽ chẳng thèm trổ tài xảo thủ. Thế là Tử Khuê đành phải gật đầu.
Người Trung Hoa rất coi trọng chữ tín nên vợ chồng Quách trang chủ đành phải
gạt lệ tiễn con, dù lòng chẳng hề muốn xa. Cậu bé Tử Chiêm thì sụt sùi khóc
lóc khi tống biệt Tam ca, khiến Tử Khuê phải hết lòng an ủi.
Chỉ mình Băng Tâm Ma Nữ Kỹ Thanh Lam biết rằng lần ra đi này sẽ đưa đến những
lần xa nhà khác. Ân oán giang hồ vốn dây dưa không dứt, người hiệp khách có
thể chẳng cần hư danh song lòng nhiệt huyết của tuổi thanh xuân đã khiến vó
câu bôn ba chẳng mỏi. Ngày xưa bà cũng đã từng là một người như thế. Nhưng nữ
nhân dễ rút chân khỏi chốn giang hồ khi xuất giá, còn nam nhi thì khác hẳn.
Khi đã thành danh, bọn đàn ông sống chết vì nó, mặc cho thê tử lo lắng, nhớ
thương.
Do tin tưởng rằng con mình là thần tiên giáng phàm tất chẳng thể sống một cuộc
sống tầm thường, Kỹ nương cắn răng chấp thuận cho Tử Khuê xuất đạo.
Nhưng nếu Âu Dương Mẫn chính là Huyết Mai hội chủ thì việc đối đầu với lão ta
sẽ nguy hiểm khôn lường cho cả Tử Khuê lẫn người thân. Do đó, bà đã luôn nhắc
nhở con trai mình phải thận trọng, không được sính cường hay sơ xuất. Và chàng
phải tuyệt đối giữ kín lai lịch, không làm liên lụy đến Quách gia trang.
Kỹ nương đã khóc khi dặn dò khiến Tử Khuê mủi lòng, vội nặng lời thề thốt để
trấn an. Chàng hứa vời mẹ rằng sẽ sống sót trở về bằng mọi giá.
Đầu tháng ba, dưới chân núi La Sơn xuất hiện một kỵ sĩ. Người này mặc đạo bào
xanh, đầu đội nón tre rộng vành, thân hình khá lực lưỡng và mặt thì đầy râu
nên người ngoài sẽ phỏng đoán rằng gã độ hăm lăm, hăm sáu tuổi.
Chàng đạo sĩ ấy dừng cương trước một nhà tiều phu, xuống ngựa hỏi thăm chủ nhà
:
Người tiều phu đã già, tuổi quá sáu mươi nên khi hỏi đường, gã đạo sĩ phải lột
nón xuống. Nhờ vậy mà chúng ta nhận ra chàng trai số mạng xui xẻo đất Hứa
Xương, dù dung mạo kia đã khác đi nhiều?
Lý do là vì Tử Khuê đã nặng hơn xưa đến ba chục cân. Món mặn luôn hơn món
chay, nếu không thì thiên hạ đã đi tu cả. Suốt mấy tháng qua, ngày nào Tử Khuê
cũng ăn toàn sơn hào hải vị, vừa thơm ngon vừa bổ dưỡng nên tăng trọng rất
nhanh. Chàng ăn vì khoái khẩu và cũng vì muốn làm vui lòng từ mẫu. Kỹ nương đã
đích thân xuống bếp trổ tài thánh thủ nên Tử Khuê phải ăn cho hết.
Quách lão cũng luôn miệng ép con trai ăn thật nhiều để bủ đắp cho ba năm chay
tịnh, kiêng khem. Ông quan niệm rằng với chiều cao hiện nay thì Tử Khuê quá
gầy.
Riêng Kỹ nương thì còn một lý do khác. Sau lần bán “Tỵ Lôi thần châu” cho Minh
chủ Võ lâm Âu Dương Mẫn, bà càng chú trọng đến việc ăn uống của ái tử. Bà hiểu
rằng khi Tử Khuê mập lên mấy chục cân và có một gương mặt đầy râu thì Âu Dương
Mẫn sẽ khó nhận ra vì chỉ gặp gỡ một lần. Trong quyển y lão Cửu Hoa Thánh Y có
sẵn toa thuốc mọc râu vô cùng thần hiệu.
Bởi thế cho nên giờ đây gương mặt Tử Khuê đầy đặn, phương phi và râu thì phủ
kín nửa mặt, bó cằm trông rất oai võ.
Do yêu cầu của Trung Thiên Tôn nên hôm nay Tử Khuê mới mặc lại đạo bào. Còn
sau này, khi cần chàng có thể dùng võ phục và mang cái lai lịch Hàn Thiếu
Lăng, hai mươi bảy tuổi, quê quán Tuần Châu, một huyện thuộc phủ Hứa Xương.
Hàn Thiếu Lăng thực là một gã lính lệ trong dinh Tổng binh Quách Tử Xuyên,
biểu đệ của Tử Khuê. Nguồn cơn là vậy, giờ chúng ta quay lại La Sơn để xem
Quách Tử Khuê rơi vào cảnh ngộ như thế nào.
Chàng nghe lời chỉ dẫn của lão tiều phu, theo đường sơn đạo cách đấy vài chục
trượng mà lên núi. Trung Thiên động nằm trên một bình đài cao gần trăm trượng,
lưng chừng núi La Sơn. Ngựa vốn có bốn chân song không thể leo núi được, Tử
Khuê đành phải gởi lại nhà lão tiều phu.
Lên đến nơi, Tử Khuê chỉ thấy một vùng toàn hoa cỏ ngào ngạt sắc hương và
chẳng hề có bóng dáng nhà cửa, mút tầm mắt cũng chỉ có một màu xanh mơn mởn
của loài Mộc cẩn. Có lẽ Trung Thiên động nằm ở chân vách đá, phía sau hàng rào
Mộc cẩn nọ?
Mộc cẩn còn có tên là cây vông vang, chị em ruột với hai loài dâm bụt và phù
dung, loài cây bụi nhỏ hoặc thân gỗ nhỏ thuộc họ cẩm quỳ.
Mộc cẩn là loài thân gỗ cao từ hai đến sáu thước, cánh nhỏ màu xám nâu, vỏ
dai, khó gãy. Lá hình trứng hoặc hình trứng xẻ thùy, hoa đơn có màu tím,
trắng, đỏ, tím nhạt. Kỳ hoa rất dài, năm đến mười tháng hoa nở liên miên, sáng
nở tối tàn nên còn có tên “Hoa sáng nở chiều tàn” từ đầu Hạ đến tận tiết Sương
giáng, ngày nào hoa cũng nở.
Bởi vậy, người ta gọi nó là loài cây hoa “Nở không dứt, bứt không hết”.
Trong lúc các loài hoa khác đã thưa thớt thì Mộc cẩn lại nở rộ, sắc màu rực
rỡ.
Hoa Mộc cẩn dạng như cái bát, giống hoa phù dung, vỏ lại giống cây đay, vì thế
còn gọi là “đay hoa bát” hoặc “đay phù dung”!
“Đoạn mô tả lê thê trên dành cho những độ giả có vợ mê phim Hàn Quốc, người
Triều Tiên trồng loài cây hoa này ở khắp nơi, xem nó là tượng trưng của sự
xinh đẹp và hạnh phúc vĩnh hằng, ca tụng nó như quốc hoa của Triều Tiên”.
Còn trong bộ truyện này, Mộc cẩn chính là chiêu bài của Trung Thiên Tôn Trần
Ninh Tĩnh lúc vừa xuất đạo giang hồ. Hơn sáu mươi năm trước, họ Trần tự xưng
là Mộc Cẩn Tú Sĩ. Nhờ võ công tuyệt thế, danh hiệu ấy mau chóng lẫy lừng Trung
Thổ. Song người đời lại lén gièm pha rằng Trần Ninh Tĩnh hơi thiếu chất đàn
ông. Họ Trần chuộng những bộ y phục có màu tím hoặc tím nhạt, tính tình lại
bất thường, sáng nắng chiều mưa.
Trần Ninh Tĩnh nghe được lời đàm tiếu ấy liền chứng minh phẩm chất đại trượng
phu bằng cách lấy lúc hai người vợ. Và trong ba năm có liền sáu đứa con.
Nhưng sau đó, thê tử của lão bị bọn ác ma giết sạch. Báo thù xong thì đầu họ
Trần đã bạc và được đời xếp vào hàng ngũ “Võ lâm Tam tôn”.
Thanh danh chẳng thể khiến Trần Ninh Tĩnh bớt chán đời, lão trở thành đạo sĩ,
chọn La Sơn làm chốn tu tiên.
Gốc gác, lai lịch của Trung Thiên Tôn thì Tử Khuê chẳng lạ, chàng đã từng được
nghe ân sư kể lại. Chàng chỉ tự hỏi rằng sau mấy chục năm tu hành liệu tính
nết lão ta có còn cổ quái, nóng nảy như xưa hay không? Và chàng sẽ phải làm gì
để đổi lấy tự do cho Thiết Đảm Hồng Nhan Tống Thụy?
Rút kinh nghiệm của cô ả liều mạng họ Tống, Tử Khuê chẳng dám hái hoa bắt bướm
từng bước thận trọng tiến vào. Đến trước hàng Mộc cẩn rậm rạp, chàng dừng chân
vận công gọi lớn :
Từ trong vọng ra tiếng người già nua :
Tử Khuê mừng rỡ tiến lên. Nhưng khi vừa vượt qua hàng cây đầu tiên, chàng lập
tức rơi vào một biển sương mù dày đặc, chẳng còn thấy được gì nữa.
Tử Khuê thất kinh hồn vía, hiểu rằng đã lọt vào một trận kỳ môn.
Chàng hoang mang thét lên :
Trung Thiên Tôn cười nhạt đáp :
Tử Khuê nói lời cảm tạ rồi bước theo thứ tự ấy, lát sau vào đến khoảng đất
trống trước cửa một thạch động ở chân vách đá.
Trung Thiên Tôn đứng chắn cửa động, tay xách bầu rượu, tay cầm vật gì đấy đưa
lên miệng gặm. Tử Khuê chưa kịp thi lễ thì phát hiện ngực áo đạo bào trắng của
Trần lão bê bết máu tươi và cái khúc dài dài mà lão đang cắn chính là mốt đoạn
cẳng tay người đủ năm ngón dài, trắng trẻo. Chàng rùng mình, rợn tóc gáy, sợ
đến mức tứ chi bủn rủn, chẳng nói nên lời và không tin vào mắt mình.
Trong lúc ấy, Trung Thiên Tôn lộ nét hân hoan, quẳng khúc xương cẳng tay đi và
cười khanh khách :
Cái miệng rộng và hàm răng trắng nhỡn của lão cũng đầy máu tươi, trông rất
đáng sợ.
Tử Khuê thôi dụi mắt, hiểu rằng Trung Thiên Tôn đã hóa thành quái vật ăn thịt
đồng loại. Và có lẽ nạn nhân đầu tiên của lão chính là Thiết Đảm Hồng Nhan
Tống Thụy. Trong tiềm thức người đàn ông, mỹ nhân luôn là một cái gì yếu đuối,
mỏng manh cần được bảo vệ. Từ cổ chí kim, nữ nhân và bọn nhi đồng là hai đối
tượng mà người hiệp sĩ phải bênh vực giúp đỡ.
Nay nghĩ đến cảnh Tống Thụy bị ăn tươi nuốt sống, Tử Khuê vô cùng thương xót
và bất giác nổi cơn thịnh nộ. Chàng chẳng còn màng đến sinh tử, quyết liều
thân giết lão ác ma.
Tử Khuê trợn mắt rống vang trời, rút kiếm xông đến, dồn hết lòng căm hận vào
chiêu “Kiếm Quải Thu Phong”.
Cái tên đầy thi vị ấy không biểu hiện được hết nội dung chiêu thức. Kiếm kình
chẳng hề nhu hòa, hây hây như gió thu mà rít lên rợn người, xé nát không gian.
Còn kiếm quang thì chớp loang loáng dưới nắng xuân, sát khí bức người.
Trung Thiên Tôn biến sắc trước chiêu kiếm tuyệt luân, định thần múa tít bầu
rượu trên tay để chống đỡ. Quả là danh bất hư truyền, chiếc bầu rượu dài hơn
gang kia lập tức tạo nên một bức tường kiên cố và kín đáo, đón lấy đạo kiếm
quang vũ bão của đối phương.
Khi hai loại vũ khí chạm nhau, tiếng thép ngân lên oang oang, chứng tỏ bầu
rượu được Trung Thiên Tôn làm bằng kim loại và khá dày.
Bảo kiếm của Tử Khuê bị chấn động mãnh liệt vì công lực của lão quái thai họ
Trần thâm hậu hơn chàng gấp bội.
Cảm giác đau rát ở hộ khẩu đã làm cho Tử Khuê tỉnh táo lại. Chàng thức ngộ
rằng chẳng thể dùng sức mà thắng đối phương.
Tử Khuê liền cố tĩnh tâm thi triển yếu quyết “Nhược Liễu Tùy Phong”, đường
kiếm mềm mại, nhu hòa song cực kỳ nhanh và hiểm ác. Mũi kiếm của chàng bám
chặt lấy cổ tay cầm bầu rượu của Trung Thiên Tôn chẳng chịu rời, khiến lão
nhất thời lúng túng như gà mắc tóc. Và thỉnh thoảng, Tử Khuê điểm những nhát
thần tốc làm cho lão ta phải rụng rời, mau mau thoái hậu hoặc nghiêng mình né
tránh.
Trung Thiên Tôn bực bội tăng thêm lực đạo, đánh những đòn nặng như núi đổ, bầu
rượu bay vun vút tựa dải lụa đen mờ. Lúc ấy, Tử Khuê khôn ngoan hoán vị tránh
chiêu và lựa thế mà phản kích.
“Tránh voi chẳng xấu mặt nào” và trường kiếm vốn dĩ mỏng manh, nhẹ nhàng,
không phải loại vũ khí chủ về lực đạo. Trong trường hợp này, Tử Khuê có ưu thế
về chiều dài binh khí nên những đòn phản công của chàng rất đáng sợ. Tất nhiên
phải kể đến tài nghệ cũng như bản chất của pho “Thanh Long kiếm pháp”.
Tử Khuê có đến mười hai năm khổ luyện võ nghệ, lần lượt do Kỹ nương rồi Vu Mộc
chân nhân dạy dỗ thành tựu, kiếm thuật của chàng cao hơn quyền chưởng vì được
sự hỗ trợ của “Thao Quang thần thức”. Với khả năng phát xạ tia chân khí để
điểm huyệt và nhũng chiêu thức chuyên biệt dành cho tay tả, chàng đã trở thành
một trong những kiếm thủ hiếm hoi sữ dụng cả hai tay.
Hôm nay trong hoàn cảnh thập tử nhất sinh này, Tử Khuê phải dốc hết vốn liếng
ra mà chiến đấu. Ít phút sau, Tử Khuê phiên thân tránh một đòn cuồng nộ của
Trung Thiên Tôn rồi phản công bằng chiêu “Nguyệt Phùng Thiên Lý” (Bóng trăng
dập dờn ngàn dặm). Từ khoảng cách hơn trượng, Tử Khuê ẩn mình trong kiếm
quang, thân ảnh chập chờn trôi nổi, ập vào đối thủ.
Khi chạm mặt nhau, trường kiếm của Tử Khuê thọc nhanh hàng trăm thế, dồn dập
tựa mưa sa, phong tỏa đường chùy của kẻ địch. Chiếc bầu rượu bằng thép ròng
của Trung Thiên Tôn được sử dụng như một loại chùy cán ngắn. Và chàng bất ngờ
vươn tả thủ xạ liền hai tia chân khí vào song nhãn Trần lão quái.
Tử Khuê chọn mắt làm mục tiêu vì biết Trung Thiên Tôn có hơn hoa giáp công
lực, lớp cưong khí hộ thân rất dày, chỉ có đôi mắt là yếu nhất.
Nhưng Trần Ninh Tĩnh là bậc kỳ nhân quán thế, chẳng dễ thất cơ trước một kẻ
hậu sinh. Lão hoàn toàn bị bất ngờ trước đòn ám tập song vẫn kịp lách người né
tránh nên chỉ có vầng tráng rộng đầy nếp nhăn trúng đòn và hơi đau đớn.
Tuy nhiên, việc này cũng khiến cho Trung Thiên Tôn hoảng vía. Lão không ngờ
một chàng trai trẻ măng lại sở đắc thủ pháp “Cương Ty Phất Huyệt” thất truyền.
Trần lão quỷ vừa chống đỡ những chiêu kế tiếp của Tử Khuê vừa thét lên, gọi ơi
ới :
Tử Khuê giật mình lo ngại vì hiểu rằng nếu có thêm học trò của Trung Thiên Tôn
nữa thì chàng khó mà thoát chết, đừng nói đến việc giết lão ta.
Nhưng may thay, tên đồ đệ của Thiên Tôn không xuất hiện mà chỉ từ trong hang
đá tối tăm kia ném kiếm ra ngoài cho sư phụ.
Trần Ninh Tĩnh quét mạnh một đường chùy, đẩy lùi Tử Khuê rồi vươn tay tả chụp
lấy bảo kiếm.
Lão ném bầu rượu xuống bãi cỏ, vung kiếm thị uy và cười khà khà :
Dứt lời, Trung Thiên Tôn lướt tới tấn công ngay. Lạ thay, kiếm pháp của lão
hiền hòa quảng đại chứ chẳng hề hung hãn.
Tử Khuê đã nghe tôn sư kể lại rằng sở trường của Trần lão là kiếm thuật nên
càng ngao ngán, thận trọng đón chiêu và chỉ sau gần khắc, chàng biết ngay mình
chẳng phải là đối thủ, khi mất ưu thế về vũ khí.
Đường kiếm của Trung Thiên Tôn nhẹ nhàng, lưu loát tựa nước chảy mây trôi
nhưng biến ảo vô song và cực kỳ hùng hậu. Nghĩa là lão đã đạt đến cảnh giới
thượng thừa tùy tâm nhi phát, thuận tay mà đánh.
Nhìn nụ cười ngạo nghễ và ánh mắt giễu cợt của đối phương, lòng Tử Khuê rực
cháy niềm bi phẫn. Chàng quên cả lời giáo huấn của ân sư và từ mẫu, nghiến
răng xuất chiêu “Hoàng Thiên Bất Tiếu”, chiêu đầu tiên trong pho “Oán Thiên
kiếm pháp”. Trong mấy tháng ở nhà, Tử Khuê đã ráo riết luyện tập và đạt đến
mức tinh túy của hai chiêu đầu.
“Oán Thiên kiếm pháp” độc ác phi thường vì nó đem máu của người thi triển đổi
lấy máu hoặc mạng kẻ thù. Và nó xảo quyệt ở chỗ dùng hàng trăm thế thức đẩy
đưa xếp đặt, từng bước, cuối cùng bắt buộc đối phương phải tấn công vào chỗ sơ
hở đã lộ ra. Nạn nhân sẽ mắc bẫy, hân hoan hạ thủ và trúng đòn ở một vị trí ác
nghiệt hơn.
Giờ đây, Trung Thiên Tôn cũng bị chiêu thức quái dị kia lường gạt. Đang chạm
kiếm, lão chợt nhận ra rằng mình chỉ cần vươn tay là dễ dàng đâm thủng huyệt
Thái Ất trên bụng trái đối phương. Nhưng chẳng hiểu sao lão quái vật ăn thịt
người ấy lại bỏ qua và lập tức thoái hậu. Nhờ vậy, lão tránh được việc thủng
yết hầu bởi một nhát gươm kín đáo của Tử Khuê.
Da cổ mát lạnh vì hơi thép quá gần, Trung Thiên Tôn rợn da gà quát lớn :
Tử Khuê đang say máu, chẳng để ý đến câu nói ấy, tiếp tục xông đến xuất chiêu
thứ hai là “Tặc Thiên Manh Nhãn” (lão giặc trời mù mắt).
Kiếm thuật ảnh hưởng rất lớn đến tính cách của người kiếm sĩ nên lúc này ánh
mắt của Tử Khuê tràn ngập sát khí, đôi môi mím chặt khiến nét mặt trở nên tàn
nhẫn, ác độc.
Trung Thiên Tôn hoảng vía bỏ chạy la bải hải :
Từ trong hang, một nữ nhân áo hồng lao vút ra chặn đường Tử Khuê, mỉm cười :
Trong lúc Tử Khuê còn bàng hoàng, ngơ ngác thì Trung Thiên Tôn quay lại, đưa
cho chàng xem cái cẳng tay người mà lão quăng đi lúc nãy. Trấn Ninh Tĩnh cười
khanh khách bảo :
Tử Khuê hiểu ra, ngượng ngùng ấp úng :
Thiên Tôn vỗ vai chàng, nheo mắt tinh quái :
Cuối thượng tuần tháng tư, Tử Khuê và Thiết Đảm Hồng Nhan TốngThụy rời La Sơn.
Trong hơn tháng qua, Trung Thiên Tôn ra sức tài bồi kiếm thuật cho Tử Khuê.
Khác với Vu Mộc chân nhân, sở trường của Trần Ninh Tĩnh là nghề đánh kiếm. Ông
luyện kiếm đã gần tám mươi năm, tiến đến cảnh giới thượng thừa của kiếm đạo.
Có thể nói rằng Vu Mộc chân nhân là ma quyền thuật còn Trung Thiên Tôn chính
thị bậc kiếm vương.
Ông không dạy Tử Khuê kiếm chiêu mà chỉ giảng giải về cái thần khí của kiếm
thuật, tức là lẽ biến hóa. Yếu quyết này cực kỳ vi diệu, cao siêu, chỉ những
bậc đại trí tuệ, bẩm sinh ngộ tính thượng đẳng mới có thể hiểu được.
Trung Thiên Tôn đã sớm thu Tống Thụy làm đệ tử và truyền thụ yếu quyết này.
Nhưng tiếc thay, nàng chỉ thuộc hàng tiểu thông minh nên không thể tiếp thu
được. Nay thấy Tử Khuê dễ dàng hiểu thấu những điều mà mình mù tịt thì Tống
Thụy vô cùng thán phục. Và vì nàng là một nữ nhân mang bản chất nam nhi nên
không hề ganh ghét, đố kỵ.
Được thụ giáo bậc kỳ nhân, Tử Khuê vô cùng phấn khởi, vui vẻ gánh vác sứ mạng
mà Trung Thiên Tôn giao cho. Chàng sẽ phải so tài với hai truyền nhân của Bắc
Thiên Tôn và Nam Thiên Tôn vào ngày rằm tháng mười sang năm. Tử Khuê đã có sư
phụ nên không thể gọi Trung Thiên Tôn là thầy. Chàng bèn lạy chín lạy, xưng
nghĩa tử. Với danh phận ấy, chàng mới được quyền đại diện Trần Ninh Tĩnh.
Mối duyên phụ tử này do Tử Khuê tự nguyện đề xuất vì Trung Thiên Tôn đã có ý
định bỏ cuộc phó ước giữa tam tôn. Ông là bậc Chân nhân đạt đạo, chẳng còn xem
trọng hư danh nữa. Ông dạy kiếm đạo thượng thừa cho Tử Khuê là vì không muốn
tâm huyết một đời bị mai một, thất truyền.
Nhưng khi tình cờ nghe Tống Thụy kể lại cái hẹn rằm tháng mười, Tử Khuê cho
rằng mình có nghĩa vụ phải thành toàn ý nguyện nhỏ nhoi ấy để đáp đền ơn
truyền tuyệt học.
Trung Thiên Tôn rất ngạc nhiên và vô cùng cao hứng khi cuối đời có được đứa
con nuôi thông tuệ, khôi ngô, cốt cách anh hùng cái thế.
Lúc này, Tử Khuê mới khai rõ lai lịch, tính danh, tuổi tác thực. Thời gian
qua, Thiên Tôn không hỏi nên chàng không có dịp nói ra. Và khi Tử Khuê định
gọi Tống Thụy là sư tỷ thì Trần lão không cho. Ông cười mát bảo :
Rồi lão nheo mắt hỏi Thiết Đảm Hồng Nhan :
Tống Thụy cố tỏ vẻ thản nhiên song ánh mắt không giấu được nỗi thẹn thùng.
Nàng giả vờ hờ hững đáp xuôi :
Và nàng ôm quyền vái :
Tử Khuê lúng túng đáp lễ :
Tống Thụy chưa kịp nói vài lời khiêm tốn thì Trung Thiên Tôn đã cười ha hả,
cao hứng bảo :
Đúng thế! Đúng thế! Sau này Thụy nhi phải luôn sát cánh với Khuê nhi mà hành
hiệp. Giang hồ hung hiểm tuyệt luân, xảo quyệt khôn lường, nếu để một mình gã
vừa ngây thơ vừa xui xẻo đi một mình thì lòng già này chẳng yên tâm.
Nói xong, ông nháy mắt với Tông Thụy, hàm ý tác thành duyên nợ cho đôi trẻ.
Thiết Đảm Hồng Nhan hiểu ý ân sư, lòng ngập tràn nỗi xuyến xao và bối rối. Dẫu
biết rằng phận nữ nhi là phải xuất giá, nhưng bao năm qua trái tim này vẫn
chưa hề rung động mãnh liệt trước một nam nhân nào. Ngay cả đối với Tử Khuê
cũng vậy, sau gần tháng tiếp cận, nàng chỉ thấy mến mà thôi. Phải chăng tình
yêu cần có thời gian để đơm hoa kết trái? Nàng mến Tử Khuê hơn bất cứ nam nhân
nào đã từng gặp nên hy vọng rằng sẽ yêu được chàng.
Ý nguyện này xem ra có cơ hội thành tựu, lúc hai người xuống núi thì tình cảm
của Tống Thụy dành cho Tử Khuê đã thắm đượm hơn môt bậc. Nhưng nếu gọi là yêu
thì chưa hẳn.
Giờ đây, đôi trai gái đồng hành trên đường thiên lý, lòng ngổn ngang những cảm
giác mơ hồ, chẳn thể xác định được.
Trong tình yêu, nam nhân không tinh tế, nhạy cảm bằng nữ nhân. Họ thường hồ
đồ, thiếu sáng suốt, chẳng hiểu rõ lòng mình cũng như lòng bạn gái.
Có nhiều chàng trai ngốc đến nỗi khi mất nhau rồi mới biết mình đã yêu tha
thiết.
Nhưng tục ngữ có câu: “Lửa gần rơm lâu ngày cũng bén”. Chúng ta cứ để thời
gian và hoàn cảnh làm cônng việc của mình. Giờ chúng ta sẽ bám theo đôi nam
thanh nữ tú ấy, trên con đường ngàn dặm từ La Sơn đến Nghiệp thành.
Trước tiên, họ phải qua Tín Dương ở phía tây La Sơn. Sau đó đi chếch hướng tây
bắc để đến Nam Dương và từ Nam Dương họ sẽ thẳng đường về đất Nghiệp.
Cuối tháng tư, Tử Khuê và Tống Thụy có mặt trong thành Nam Dương ghé vào Bạch
Hà đại tửu lâu dùng bữa trưa. Sông Bạch Hà chảy qua mạn hướng Đông Thành, là
một bộ phận gắn liền vời đất Nam Dương, nên tên của nó được nhiểu lâu quán ưa
chuộng. Đối diện Bạch Hà đại tửu lâu còn có Bạch Hà đại lữ điếm, Bạch Hà lạp
vị gia.
Ở vùng Hoa Trung, bốn mùa rõ rệt, Hạ về đúng hẹn nên nắng vàng chói chang và
hoa lựu nở khắp nơi, rực rỡ ánh hồng.
Tầng trệt của Bạch Hà đại tửu lâu đông nghẹt thực khách vì dưới này mát mẻ hơn
lầu trên, và người ta có thể vừa ăn nhậu vừa ngắm cảnh vườn hoa xung quanh qua
những khung cửa sổ rộng.
Trưa nay, trong tầng dưới tửu lâu có khá đông khách võ lâm, chứng tỏ rằng Nam
Dương đã xảy ra một biến cố lớn hoặc một đám gì đó. Người Trung Hoa rất hào
sảng, rộng rãi và thích ồn ào. Dẫu đám ma, đám cưới, đám giỗ, đám thượng thọ,
họ cũng cố tổ chức ăn nhậu và mời mọc khắp nơi, tuy chỉ có một chút dây mơ rễ
má hoặc sơ giao.
Người được mời không thể không đi và sau này có dịp thì mời lại. Kết quả là
mỗi năm họ phải đi dự hàng chục, hàng trăm đám tiệc vừa tốn kém ngân lượng vừa
mất thời giờ. Giàu thì không sao, chỉ tội cho những người nghèo mà có chút
thanh danh ở địa phương, văn võ gì cũng vậy. Nhiều khi vợ con đói meo mà một
vị tú tài hay ngài đại hiệp nào đó phải cầm cố, vay mượn để có tiền đi đám.
Tử Khuê và Tống Thụy vào đến một bàn trống, cạnh tường Đông, lột nón rộng vành
và an tọa. Lúc này, bọn hào khách trong quán mới nhận ra Thiết Đảm Hồng Nhan
Tống Thụy. Có nhiếu người quen biết nàng, khấp khởi mừng, song không vội hô
hoán. Họ khá bỡ ngỡ khi thấy nàng nữ liều mạng kia đồng hành với một Hán tử
râu ria, oai võ, thân thể cao to. Tống Thụy tính tình cởi mở, quảng giao nhưng
ít khi đi chung với nam nhân.
Nhưng có một kẻ hoặc đã hơi say hoặc vì quá ái mộ Thiết Đảm Hồng Nhan nên
không thể nén lòng, lập tức đứng lên bước đến chào hỏi.
Đấy là một nam nhân tuổi độ hai mươi bảy, hai mươi tám, người mảnh khảnh, tầm
vóc trung bình, mặc trường bào gấm màu nâu, hông mang kiếm, tay cầm quạt
lụa...
Trông ra dáng một kẻ xuất thân kim ốc. Dung mạo khá anh tuấn dù cằm hơi lém và
mắt hơi lớn, điểm chút nữ tính.
Gã là kẻ có thanh danh chốn võ lâm nên phong thái không khỏi có phần tự mãn.
Lư Công Đán là ái tử duy nhất của Lư Tài Thần đất Dụ Châu, nằm giữa Nam Dương
và Nghiệp thành. Gã còn là đệ tử tục gia ưu tú của phái Hoa Sơn, võ nghệ cao
cường hai mươi tuổi đã nổi danh Tây Nhạc kiếm khách.
Giới cao thủ lớp trẻ đương đại có năm người xuất sắc, được giang hồ võ lâm gọi
là “Võ lâm Ngũ Tú”. Tây Nhạc kiếm khách Lư Công Đán ở trong số ấy.
Ngũ Tú gồm: Võ Đương Thần Kiếm Mộ Duy Lộ, Nga Mi Nhất Kiếm Lạc Y Thường, Tây
Nhạc kiếm khách Lư Công Đán, Đông Nhạc Tiên Hồ Dịch Tái Vân, Thiếu Lâm Thần
Côn Lã Hoa Dương.
Cách xếp đặt thứ tự trên chẳng phải dựa vào bản lĩnh võ công, những người này
chưa hề tỷ thí với nhau.
Trở lại với Lư Công Đán, ta sẽ thấy gã hớn hở ôm quyền thi lễ và ngọt ngào nói
với Thiết Đảm Hồng Nhan :
Rồi gã vái Tử Khuê, tươi cười bảo :
Tử Khuê bị bộ râu rậm rì làm cho già đi nên dung mạo trông như đã gần ba mươi.
Do đó, Lư Công Đán mới gọi chàng là anh và xưng tiểu đệ. Việc này khiến Tử
Khuê rất ngượng ngùng, lúng túng đáp :
Chàng chưa dứt lời thì Tống Thụy xem vào, nàng ôn tồn bảo họ Lư :
Lư Công Đán lộ vẻ kinh ngạc :
Gã đi rồi, Tử Khuê dịu giọng bảo Tống Thụy :
Và chàng mỉm cười :
Tuy làm ra vẻ thản nhiên song trong thâm tâm Tử Khuê lại rối bời một cảm giác
khó gọi tên. Chàn thầm mong Thiết Đảm Hồng Nhan sẽ không sang với Tây Nhạc
kiếm khách mà ở lại với mình.
Tống Thụy nhìn sâu vào mắt chàng, điềm đạm đáp :
Tử Khuê nghe câu nói tế nhị hợp tình hợp lý ấy thì đâm ra hổ thẹn. Chàng tự
trách mình :
Nghĩ thế nên lòng chàng thanh thản lại, cười rất tươi :
Tống Thụy rất hài lòng, dịu dàng nói :
Hai người thu nhặt tay nải và nón tre, bước về phía khu vực trung tâm tửu
quán, nơi bọn Lư Công Đán đã bày tiệc mới.
Bàn bát tiên thường có mặt hình vuông, chân hơi cong. Nhưng ở các lâu quán,
bốn chân bàn được làm rất thẳng để khi cần có thể ghép nhiều bàn lại với nhau.
Giờ đây sáu chiếc bàn kề vai sát cánh, thừa chỗ cho hai chục người ngồi quanh.
Chén đũa, thức ăn đều mới dọn lên, nghi ngút khói và thơm ngậy. Bọn Lư Công
Đán hân hoan đứng cả dậy đón chào cố hữu.
Thiết Đảm Hồng Nhan là bậc anh hùng trong giới quần thoa, tính tình cương
nghị, sảng khoái như đàn ông, nhưng ngôn từ, cử chỉ lại chẳng kém phần thùy
mị, tinh tế.
Về nhan sắc thì Tống Thụy xứng danh mỹ nữ, mắt bồ câu đen lay láy, mũi dọc dừa
thẳng tắp môi anh đào mong mỏng có đường viền gọn ghẽ. Bình thường, gương mặt
trái xoan kiều diễm ấy hơi phảng phất nét buồn. Nhưng khi nàng cười thì dung
nhan rực rỡ khách thường và làm say đắm lòng người. Răng nàng không đều, có
một hai chiếc răng khểnh, song chẳng hiểu sao những nụ cười hồn nhiên kia lại
có nội lực mê hồn đến thế?
Cho nên không chỉ Lư Công Đán mà khá nhiều nam nhân hiện diện ái mộ Tống Thụy.
Sau một thời gian tiếp cận họ đều thất vọng, bỏ cuộc vì hiểu rằng trái tim
nàng xa lạ với tình yêu nam nữ. Nàng chỉ xem họ như những hảo bằng hữu trên
chốn giang hồ, có thể cùng nhau hàn huyên và uống rượu giải khuây, hoặc sánh
vai đối phó với kẻ thù nào đó.
Tuy từ bỏ ước mơ giai ngẫu song những người ấy rất vui khi gặp Tống Thụy. Họ
hân hoan cười nói, đón chào và bắt cố nhân phải cạn chén trùng phùng.
Tử lượng của Tống Thụy khá cao, dẫu uống nhiều mặt hoa cũng chỉ phớt hồng chứ
không đỏ rực. Nhưng dầu sao nàng cũng là nữ nhân được bọn đàn ông khoan nhượng
không ép uổng.
Riêng đối với Tử Khuê thì khác, chàng phải cạn liên mười tám chung với những
kẻ mới quen. Uống xong, sắc diện Tử Khuê chỉ hơi tái đi và vẫn hoàn toàn tỉnh
táo, khiến bọn hào khác Hà Nam phục lăn.
Trong bàn ăn nhậu, kẻ có tửu lượng cao cường, phong thái trầm tĩnh thư thái
vui vẻ rất dễ tạo được hảo cảm. Vì vậy, dẫu Tử Khuê chỉ mỉm cười và nốc rược
mà vẫn được mếm mộ.
Chàng thực lòng cao hứng khi tham gia bữa tiệc này chứ không hề gượng ép. Điều
ấy đã khiến cho Tống Thụy rất vui, nhìn chàng với ánh mắt cảm kích.
Nếu chàng khách sáo hoặc ngượng ngùng thì nàng sẽ mất mặt với bạn bè cũ.
Sau vài tuần rượu, Thiết Đảm Hồng Nhan dò hỏi :
Lư Công Đán nhướng mày, làm ra vẻ quan trọng :
Vật ấy hiện ở trong tay một thổ hào đất Bảo Bình, cách Nam Dương hai chục dặm
về phía Tây.
Thiết Đảm Hồng Nhan cau đôi mày liễu chẳng hề được tỉa tót, tô vẽ mà vẫn xanh
đen, hỏi lại :
Lư Công Đán đắc ý kể lể :
Quỷ chân nhân có thể hoành hành bá đạo như vậy là nhờ có cây “Diêm Vương quỷ
kỳ”. Cây cờ này ban đêm sai khiến được âm binh, tạo ra những luồng quái phong
làm tê liệt bất cứ ai chạm phải. Ban ngày thì tác dụng kém đi, quái phong chỉ
công hiệu trong bán kính hơn trượng. Song như thế cũng quá đủ để Quỷ chân nhân
Đơn Ngạn Hòa thành kẻ bất bại.
Cuối cùng, tổ sư phái Toàn Chân là Vương Trùng Dương đã lan tin khắp giang hồ,
khiêu chiến với Quỷ chân nhân. Vương Tổ sư chấp nhận so tài cả vào ban đêm,
lúc “Diêm Vương quỷ kỳ” có uy lực cao nhất.
Quỷ chân nhân đã nhận lời vì cho rằng Vương Trùng Dương chẳng thể nào hơn được
Phật Như Lai. Lão đã từng đánh cướp Tàng kinh các của chùa Thiếu Lâm mà Phật
tổ vẫn lặng thinh, chẳng làm được gì.
Nhưng để chắc ăn, Quỷ chân nhân chọn giờ Hợi đêm rằm tháng bảy đêm của vong
hồn. Còn địa điểm là bãi đất hoang cạnh bờ sông Bạch Hà cách thành Nam Dương
này hơn chục dặm về hướng bắc.
Đêm ấy, trước sự chứng kiến của mấy người, Quỷ chân nhân vũ lộng Quỷ kỳ, tạo
nên luồng quái phong mãnh liệt, chập chờn ngàn bóng u linh ghê rợn, làm cho
cát bụi mịt mù. Nào ngờ, Vương tổ sư thản nhiên xông thẳng qua trận bão ma ấy,
chỉ một chiêu kiếm đã đâm thủng tâm thất họ Đơn.
Tuy trúng đòn trí mạng như thế mà Quỷ chân nhân vẫn còn đủ sức tung mình xuống
sông Bạch Hà mất dạng, mang theo “Diêm Vương quỷ kỳ”.
Nhưng sau đó lão không hề xuất hiện nữa nên mọi người đoán rằng Đơn Ngạn Hòa
đã chết.
Nghe xong Thiết Đảm Hồng Nhan mỉn cười khen ngợi :
Được mỹ nhân tán dương, Tây Nhạc kiếm khách cực kỳ khoan khoái hai cánh mũi
phập phồng và nở lớn. Gã hắng giọng nói tiếp :
Kỹ lão sính văn chương, thường đến Trích Tiên lâu ở cửa Tây thành Nam Dương
này ngâm vịnh. Gia phụ cũng có thú ấy nên hai người đã trở thành bằng hữu.
Ngu huynh thường theo phụ thân đến chơi Kỹ gia trang nên mới biết Kỹ Tòng Thư
rất giỏi võ. Ông ta vốn là đệ tử tục gia của phái Thanh Thành. Kỹ đại thúc đã
dạy dỗ, huấn luyện ba trăm tráng đinh trong trang thành những tay kiêu dũng,
giỏi cả kiếm lẫn cung. Ông cũng truyền cho ngu huynh vài trăm chiêu kiếm rất
tuyệt diệu.
Kỹ đại thúc không có con trai nên hai năm trước nạp một người tiểu thiếp tuổi
mới hăm lăm, tên gọi Lâm Cổ Hoàn. Nào ngờ Lâm thị là người phóng đãng, lẳng
lơ, âm thầm thông dâm với một đệ tử của Kỹ đại thúc.
Đầu xuân năm nay, Lâm Cổ Hoàn đã cùng với tên đốn mạt ấy lấy trộm ba ngàn
lượng vàng rồi trốn đi. Biết rằng Kỹ đại thúc sẽ không bỏ qua, truy đuổi đến
cùng, nên Lâm Cổ Hoàn và gã Đinh Văn Kiệt đã rêu rao suốt đường đi rằng “Diêm
Vương quỷ kỳ” đang ở Kỹ gia trang. Họ muốn Kỹ Tòng Thư phải chết.
Thế là cả võ lâm chấn động, ùn ùn kéo nhau về Bảo Bình. May thay, Tổng binh
thành Nam Dương Từ Hậu lại là bạn thi văn với Kỹ đại thúc và gia phụ, nên đã
mang ngàn quân đến bảo vệ Kỹ gia trang, khi nhận được lời cầu cứu của bạn già.
Do đó, suốt nửa tháng nay, Kỹ gia trang vẫn bình yên.
Nhưng thiên hạ lại đồn rằng Minh chủ Võ lâm Âu Dương Mẫn đang trên đường đến
Bảo Bình. Với cương vị của mình, lão có quyền thu hồi cái vật có thể gieo tai
họa cho giang hồ và bách tính.
Tống Thụy ngắt lời gã :
Lư Công Đán khoan đáp, nâng chén mời cả bàn uống cạn rồi mới lên giọng :
Tất nhiên là cũng chẳng ai thèm đóng góp cho ngân quỹ Tổng đàn như trước nữa.
Không những thế, có hai bang hội mới thành lập mà chẳng cần xin phép Minh chủ,
và cái tên của họ cũng hàm ý khiêu khích Âu Dương Mẫn.
Phái thứ nhất là Chiết Mai bang ở núi Lĩnh Sơn vùng đất cực tây Hà Nam, giáp
với Thiểm Tây. Phái thứ hai là Bích Huyết bang ở huyện Tân Thái cách đây chừng
hai trăm dặm về phía đông.
Với vị trí như thế, vô hình trung hai bang ấy muốn cùng Âu Dương Mẫn tạo thành
thế ba chân vạc trên đất Hà Nam, tâm điểm của võ lâm.
Âu Dương Mẫn rất cay cú song phải lờ đi vì e ngại những đại nhân vật đang đỡ
đầu cho hai bang hội ngạo mạn kia. Hậu thuẫn của Chiết Mai bang là Bắc Thiên
Tôn Phùng Thịnh Đoan, của Bích Huyết bang là Nam Thiên Tôn Từ Tôn Chiến.
Hiện nay, Chiết Mai bang cùng Bích Huyết bang đều đã kéo lực lượng đến Bảo
Bình, tất sẽ không để Âu Dương Mẫn đoạt cây “Diêm Vương quỷ kỳ”.
Và ngược lại, Âu Dương Mẫn cũng quyết lấy cho được bảo vật để thực sự trở
thành bá chủ. Bởi thế, cuộc chiến trước mắt sẽ rất ác liệt, máu xương chồng
chất.
Kể xong, Lư Công Đán lộ sắc lo âu hạ giọng :
Bỗng có tiếng cười trong như ngọc vỡ, đầy vẻ quyến rũ cất lên và ai đó nhẹ
nhàng mỉa mai :
Người nói ra câu chí lý ấy là một nữ lang võ phục vàng nhạt, áo choàng lưng
màu tía, đầu đội nón rộng vành có rèm che mặt. Khi nàng lột nón ra, bọn nam
nhân hoảng hốt ré lên :
Lư Công Đán đứng lên, ngượng ngùng nói :
Đông Nhạc Tiên Hồ mỉn cười, chậm rãi bước đi trong một khoảng không gian hoàn
toàn tĩnh lặng. Mọi thực khách đều đã nín thở, trố mắt chiêm ngưỡng ả hồ ly
núi Thái Sơn.
Dịch Tái Vân xinh đẹp phi thường, đẹp đến mức chẳng bút nào tả xiết, một cái
đẹp rất đàn bà chứ không pha chút nam tính như Thiết Đảm Hồng Nhan.
Ở nàng, mọi bộ phận đều đạt đến mức tuyệt mỹ, chỉ có thể hình dung bằng những
ẩn dụ như :
Làn Thu thủy nét Xuân sơn Hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh.
Nhìn nàng, bọn đàn ông lập tức bị quyến rũ mê muội và khao khát. Có thể vì
gương mặt tiên nga và cũng có thể vì thân hình thon thả, khiêu gợi của nàng.
Dịch Tái Vân ăn mặc kín đáo, chẳng chút hở hang song tất cả dường như đã lộ ra
dưới lớp lụa óng ả, bó sát cơ thể. Chiếc áo ấy được may một cách chính xác đến
từng ly, tôn vinh vòng eo thon thả, bờ môn tròn trịa và đôi ò bồng đảo kiêu sa
thấp thoáng nhấp nhô hai múm vú nho nhỏ.
Lối phục trang ấy không che được gì cả mà chỉ khiến cho đàn ông rờn rợn thịt
da, mặt nóng bừng vì động tình.
Đâu đây bỗng khẽ có những tiếng thở dài, những âm thanh của động tác nuốt nước
bọt đầy thèm khát. Nhưng có một người mỉm cười đó là Quách Tử Khuê. Chàng cũng
ngất ngây trước nhan sắc khuynh thành của Đông Nhạc Tiên Hồ song chẳng hề mê
muội. Lý do là vì Tử Khuê biết rõ rằng xác thân nóng bỏng kia được tạc bằng
băng tuyết, rằng Dịch Tái Vân chẳng phải đàn bà.
Cũng như sư phụ là Thái Sơn Tiên Nương, Tái Vân đã luyện công phu “Thái Âm Tố
Nữ tâm pháp”. Tuyệt học này giúp người luyện trẻ trung rất lâu, nhan sắc như
tồn tại mãi với thời gian. Nhưng đổi lại, người ấy sẽ đánh mất hoàn toàn những
cảm xúc tình dục.
Bí mật ấy Tử Khuê biết được là do sự tiết lộ của Cửu Hoa Thánh Y Cổ Sĩ Hoành
trong lần gặp nhau ở Quang Hóa. Cổ lão đã từng yêu thương Thái Sơn Tiên Nương,
cố đem tài Hoa Đà, Biển Thước ra khắc phục khuyết điểm chết người của “Thái Âm
Tố Nữ thần công”, nhưng đã thất bại.
Ngày ấy, trước lễ thọ của Chưởng môn phái Võ Đương, Cổ Sĩ Hoành tình cờ biết
được việc Âu Dương Mẫn sai Đông Nhạc Tiên Hồ quyến rũ Võ Đương Thần Kiếm Mộ
Duy Lộ để đánh cắp thanh “Trạm Lư thần kiếm”, nên đã bảo Tử Khuê dùng phép
“Phất Huyệt Tỏa Kinh” phá vỡ âm mưu kia.
Mộ Duy Lộ mất đi khả năng tình dục tất sẽ chẳng còn say mê Dịch Tái Vân được
nữa.
Tử Khuê nhớ lại thủ đoạn quái ác của sư thúc mà không nén nổi cười. Và chính
nụ cười lạ lùng ấy đã khiến Đông Nhạc Tiên Hồn ngạc nhiên, thắc mắc.
Tại sao Hán tử râu rậm kia lại nhìn mình rồi mỉn cười, cứ như phát hiện ra một
vết lọ nồi khôi hài trên mặt vậy? Là ánh mắt chàng ta cũng biểu hiện rõ vẻ
giễu cợt, thích thú.
Nàng chẳng có khả năng cảm nhận khoái lạc xác thịt với nam nhân nhưng vẫn là
một người đàn bà say mê tôn thờ nhan sắc của chính mình. Do đó, Dịch Tái Vân
không chịu nổi thái độ kỳ quặc, khó hiểu của Tử Khuê, liền rảo bước đến, hậm
hực hỏi chàng :
Tử Khuê đang lung túng, chưa biết trả lời thế nào thì Thiết Đảm Hồng Nhan đứng
phắt dậy, lạnh lung bảo :
Cái câu: “Rừng không hai cọp” cũng có nghĩa là ở cùng một chỗ chẳng nên có hai
người đàn bà đẹp. Sự đố kỵ về nhan sắc đã ăn sâu vào máu huyết nữ nhân, được
giấu kín nhờ trí tuệ và nhân phẩm mỗi người. Những khi có cơ hội thì cái bản
năng ấy bùng nổ rất dữ dội.
Rõ ràng là vẻ đẹp lồ lộ, đầy ma lực của Đông Nhạc Tiên Hồ đã lấn áp nét hấp
dẫn kín đáo của Thiết Đảm Hồng Nhan, khiến Tống Thụy hơi buồn trong dạ. Nàng
thầm chán ngán đám nam nhân háo sắc chung quanh. Nay Tử Khuê không giống họ,
lại còn chọc giận con chồn cái lẳng lơ kia, làm cho nàng thấy lòng được an ủi
và khi nghe Dịch Tái Vân dám hạch sách kẻ tri âm, tri kỷ duy nhất của mình thì
Tống Thụy liền nổi tam bành.
Đông Nhạc Tiên Hồ giật mình nhìn Tống Thụy rồi cười yêu mị :
Ngoài Tống nữ hiệp ra chẳng có nữ nhân nào vừa đẹp vừa nóng nảy như thế?
Câu khen ngợi khéo léo này đã dập bớt lửa giận trong lòng Tống Thụy.
Nàng hờ hũng đáp :
Tây Nhạc kiếm khách Lư Công Đán nhăn nhó giảng hòa :
Dịch Tái Vân cười tươi như hoa, trấn an họ Lư :
Nàng vui vẻ ngồi xuống chiếc ghế trống bên cạnh Lư Công Đán, đối diện với Tử
Khuê và Tống Thụy.
Sau màn giới thiệu tính danh, Tái Vân cạn chén với cả bàn rồi tủm tỉm hỏi Tử
Khuê :
Rõ ràng là ả hồ ly vẫn còn ấm ức nên tìm cách chơi trác Tử Khuê. Tái Vân cho
rằng một gã to con thô kệch, mặt đầy râu kia chẳng thể nào làm nổi một câu
thơ. Và giả như chàng có làm được thì ả cũng thừa sức bắt bẻ, chê bai khiến
chàng phải bẽ mặt.
Lư Công Đán quá rõ thâm ý của Đông Nhạc Tiên Hồ liền bác ngay :
Nào ngờ, Tử Khuê lại ứng tiếng :
Nay có dịp để khoe tài với mỹ nhân, tại hạ chẳng thể bỏ lỡ được.
Họ Lư thở dài, thầm lo lắng rằng lát nữa đây con cọp cái Thiết Đảm Hồng Nhan
sẽ chẳng tha cho Đông Nhạc Tiên Hồ. Dù Tống Thụy không có tên trong hàng ngũ
sao sáng võ lâm nhưng võ công chẳng kém gì gã. Và với đấu pháp liều lĩnh, đáng
sợ của nàng thì Dịch Tái Vân thua là cái chắc. Tiên Hồ qua xem trọng nhan sắc
nên sợ thương tích, dũng khí đâu mà chống chọi với một đối thủ không sợ chết?
Lúc này, Tử Khuê đã hắng giọng ngâm nga, mắt nhìn thẳng vào mặt Tái Vân:
Hiềm huy vạn diễm vô năng noãn
Mỹ nữ thiên hương bất khả xan!
Tạm dịch
Ánh trăng dẫu sáng không làm ấm
Gái đẹp dù xinh chẳng thể ăn!
Bọn nam nhân vỗ tay tán thưởng hai câu thơ dí dỏm ngộ nghĩnh. Họ không để ý
rằng gương mặt đẹp của Đông Nhạc Tiên Hồ giờ đây tái xanh như tàu lá và ánh
mắt nàng tràn ngập vẻ hoang mang, sợ hãi. Nàng không ngờ gã râu rậm chết toi
kia lại biết rõ bí mật của mình. Hiềm huy tức thị Thái Âm, còn mỹ nữ cũng
chính là Tố Nữ.
Lời thơ còn hàm ý rằng gã biết nàng lãnh cảm, không thể sưởi ấm và làm thỏa
lòng người đàn ông được.
Nhưng đồng thời, Tái Vân lại nhận thấy sắc diện cùng nhãn thần đối phương rất
hiền hòa, chẳng chút gì gọi là cay độc, mỉa mai. Vậy phải chăng Hàn Thiếu Lăng
chỉ tình cờ sáng tác hai câu thơ ấy chứ không hề biết nàng luyện Thái Âm Tố Nữ
thần công?
Trong tâm trạng rối bời, nửa tin nửa ngờ, Tái Vân chẳng còn lòng dạ nào mà bắt
bẻ nữa, gượng gạo vỗ tay khen hay và cảm ơn Tử Khuê.
Lư Công Đán mừng hết lớn dõng dạc mời cạn chén và nói lảng sang chuyện khác.
Gã thực sự đã yêu thương Thiết Đảm Hồng Nhan song cũng chẳng hờ hững với Đông
Nhạc Tiên Hồ. Gã có quyền mơ mộng đến cả hai vì họ đều ở ngoài tầm tay, chưa
ai chịu ban bố chút ân tình nào.
Qua ngọ, Tây Nhạc kiếm khách đưa cả đám rời Nam Dương, đi đến Kỹ gia trang ở
đất Bảo Bình.
Dọc đường, Lư Công Đán gióng ngựa sánh đôi Tống Thụy vì Dịch Tái Vân đã cặp kè
Tử Khuê. Đông Nhạch Tiên Hồ chẳng yên tâm, quyết tiếp cận gã râu rậm họ Hàn để
điều tra hư thực. Nếu đúng là Hàn Thiếu Lăng nắm được nhược điểm của nàng thì
gã phải chết.
Tái Vân không hề nghĩ đến Cửu Hoa chân nhân Cổ Sĩ Hoành vì Thái Sơn Tiên
Nương, sư phụ nàng chưa bao giờ nhắc lại cuộc tình vô vọng cũ.
Muốn cho một nam nhân cung cấp tin tức, bộc lộ tâm can thì chẳng có cách nào
tốt hơn là dùng mỹ nhân kế. Phương pháp này đã được sử dụng nhiều năm mà vẫn
luôn luôn công hiệu. Và Đông Nhạc Tiên Hồ lại là thiên hạ đệ nhất mỹ nhân, dẫu
Hằng Nga, Tây Thi tái sinh cũng không thể qua nổi. Do đó, Dịch Tái Vân rất tự
tin, đem hết bản lãnh quyến rũ đàn ông ra chinh phục Tử Khuê.
Đầu mày, cuối mắt, giọng nói, tiếng cười tất cả đều hấp dẫn phi thường có thể
lung lạc ngay một bậc cao tăng đắc đạo.
Nhưng khổ nỗi Tử Khuê lại hiểu quá rõ bản chất thực của mỹ nhân nên nhận ra
những biểu hiện bên ngoài ngọt ngào, kiều mị kia toàn là giả dối. Nhờ vậy,
chàng không bị mê muội, thản nhiên và tỉnh táo đối đáp.
Thực ra, Tử Khuê cũng có đôi chút xuyến xao, rạo rực trước nhan sắc khuynh
thành và thân hình bốc lửa của Tái Vân. Mấy tháng qua, chàng ngã mặn, lại ăn
toàn cao lương mỹ vị đầy chất bổ nên dục tính rất vượng. Vả lại, ấn tượng của
giấc mơ ái ân với Nữ Hầu tước Trình Thiên Kim luôn ám ảnh, khiến chàng hổ thẹn
và tử nhủ rằng đến lúc phải lấy vợ. Tuy nhiên, khác với Trình Thiên Kim, Tử
Khuê không thức ngộ được rằng giấc mơ kia là thực. Việc nam nhân thỉnh thoảng
mộng tinh là rất thường tình. Nghĩa là, Tử Khuê chỉ xem Bang chủ Hoàng Phong
bang giống như Thiết Đảm Hồng Nhan, một trong những đối tượng có thể thành vợ
mình.
Riêng đối với Dịch Tái Vân, Tử Khuê không mơ tưởng đến, chỉ có cảm giác như
người đang thưởng lãm một pho tượng đẹp vô tri, vô giác.
Rời cửa tây thành Nam Dương được sáu bảy dặm, đoàn người đi xuyên qua một cánh
rừng sơn, loại cây nguyên liệu chính cho ngành sản xuất sơn màu của Trung Hoa
cổ.
Thình lình, khung cảnh tĩnh lặng bị xé toang bời một tràng cười ghê rợn, chói
tai. Và từ trong rừng, hàng trăm gã võ sĩ áo xanh thẫm ùa ra, chặn kín hai đầu
quan đạo, vây chặt bọn Tử Khuê lại. Vũ khí của chúng là những cây đao lớn,
nước thép xanh rờn.
Đây là loại đao làm phỏng theo kiểu đao Nhật Bản, dài tổng cộng non nửa
trượng, chuôi một xích rưỡi. Thứ vũ khí này rất thịnh hành trong quân binh, từ
sau thời nhà Nguyên. Do chuôi đao dài nên người ta có thể cầm bằng hai tay,
chém người, ngựa trong những trận chiến trên bộ rất tiện lợi, lực đạo mạnh mẽ
và tầm sát thương khá rộng. Tuy nhiên, nó vẫn được xếp vào hàng ngũ đoản binh
vì trường đao dài đến hai phần ba trượng và nặng tới hai mươi lăm cân.
Thủ lĩnh của đội quân áo xanh nọ là một lão nhân thân hình khôi vĩ, mặt đỏ như
son, tóc xõa ngang lưng, râu hùm hàm én rất oai phong. Tuổi lão chắc khoảng
thất thập vì râu tóc đều đã hoa râm.
Với tướng mạo anh hùng ấy, lão ta chẳng thể là kẻ vô danh, nên bọn Tây Nhạc
kiếm khách nhận ra ngay. Gã vội hạ mã, kính cẩn ôm quyền thi lễ :
Gã chẳng dám thất lễ vì biết lão mặt đỏ là Bảo chủ Thần Đao bảo Tần Minh Viên,
hùng cứ đất Thâm Dương, cách Nam Dương gần trăm dặm về hướng đông.
Tần lão có sức khỏe phi thường, đao pháp tinh thông, được xem là cao thủ số
hai của võ lâm. Thần Đao bảo chủ chính là người đã cùng Lư Châu đại hiệp Âu
Dương Mẫn đấu trận chung kết tranh ngôi Minh chủ. Sau gần ngàn chiêu, Âu Dương
Mẫn mới thắng nổi Tần Minh Viên.
Tổ phụ họ Tần còn là công thần triều Minh, con cháu đời đời Tập Tước Thần Đao
Bá, nên thế lực Thần Đao bảo cực kỳ hùng mạnh. Ngay Âu Dương Mẫn cũng nể mặt,
chẳng dám đụng chạm đến.
Nhắc lại Tần Minh Viên nghe Lư Công Đán hỏi như thế thì cười nhạt đáp :
Trừ Tử Khuê ra, bọn Lư Công Đán gần hai mươi người đều giật bắn mình thầm
thương xót cho Dịch Tái Vân.
Thiếu bảo chủ Thần Đao bảo Tần Trọng Vỹ vốn được thiên hạ gọi bằng cái xú danh
Đà Bối Ngốc Đao. Tuy vừa gù vừa ngu song nhờ gia thế giàu sang nên cũng lấy
được vợ. Nhưng chỉ hai tháng sau là vợ gã chịu đựng hết nổi ôm gói bỏ trốn. Kể
từ lúc ấy, chẳng nhà nào dám gả con gái cho Trọng Vỹ nữa.
Người ta đồn rằng Đà Bối Ngốc Đao mắc bện bạo dâm, phải đánh đập, hành hạ
người phối ngẫu thì mới thỏa lòng.
Vì vậy, người ngoài chỉ giật mình nhưng Đông Nhạc Tiên Hồ Dịch Tái Vân thì sợ
đến chết khiếp. Nàng cố trấn tĩnh lên tiếng :
Bảo chủ Thần Đao bảo thản nhiên đáp :
Lúc trở về, y phát bệnh tương tư, nằng nặc đòi cưới cho được ngươi. Trọng Vỹ
không ăn, không ngủ suốt mấy tháng qua nên giờ đây tính mạng như đèn trước
gió. Lão phu chỉ có y là kẻ nối dõi tông đường nên chẳng thể khoanh tay nhìn
con mình chết thảm và họ Tần tuyệt tự. Do vậy, lão phu bất chấp thủ đoạn, bằng
bất cứ giá nào cũng phải đưa ngươi về Thần Đao bảo để cứu mạng Vỹ nhi.
Nghe giọng lưỡi bá đạo ấy, Đông Nhạc Tiên Hồ càng bội phần lo lắng, đành phải
thổ lộ chút bí mật để giải vây, nàng nghiêm nghị nói :
Nào ngờ Tần Minh Viên không hề sợ hãi, lại ngửa cổ cười dài :
Đông Nhạc Tiên Hồ chết điếng người không ngờ Âu Dương Mẫn lại bán đứng mình để
đổi lấy sự hỗ trợ của Thần Đao bảo. Sau khi bị triều đình tước bớt quyền hành
để điều tra, Âu Dương Mẫn cảm thấy mình cô thế trước sự uy hiếp của hai bang
hội mới là Chiết Mai bang và Bích Huyết bang, nên rất cần đến thế lực hùng
mạnh của Thần Đao bảo.
Dịch Tái Vân xảo quyệt như chồn nên mới có danh hiệu Tiên Hồ. Nàng chẳng cam
tâm thúc thủ ngay mà cố nghĩ cách thoát thân. Tái Vân làm ra vẻ ung dung nói :
Bổn cô nương đã lỡ có vị hôn phu, chẳng thể làm dâu họ Tần được. Người ấy cũng
đang hiện diện ở đây.
Kế sách này của Đông Nhạc Tiên Hồ rất lợi hại vì dẫu sao thì Tần Minh Viên
cũng là kẻ có thanh danh cao cả trong võ lâm, đồng thời còn là một bá tước,
chẳng thể giết người đoạt vợ được. Nếu nàng chưa chồng thì lão có thể mược Âu
Dương Mẫn làm bình phong, tàm tạm muối mặt với thiên hạ. Lúc này, số người
hiếu kỳ tụ tập ở chung quanh đã khá đông, họ cũng đang trên đường đến Bảo
Bình, thấy việc lạ thì mừng rỡ xúm lại xem.
Thần Đao bảo chủ bối rối suy nghĩ :
Nhưng vì thương con, Tần Minh Viên bấm bụng chơi trò tháu cáy, quắc mắt hăm
dọa :
Rồi lão bất ngờ chỉ mặt Tây Nhạc kiếm khách Lư Công Đán mà nạt lớn :
Họ Lư hồn vía lên mây, thảng thốt đáp liền :
Phần vì sợ hãi cái oai của đối phương, phần vì trong lòng vốn nặng tình với
Thiết Đảm Hồng Nhan hơn nữa gã đã buột miệng trả lời như vậy. Nói xong, Công
Đán liếc nhìn Tống Thụy như gởi gắm tâm tình. Nào ngờ, Thiết Đảm Hồng Nhan
chẳng chút cảm động mà còn cau mày biểu lộ vẻ không hài lòng.
Tuy Tống Thụy chẳng ưa gì Đông Nhạc Tiên Hồ song rất chán ghét hành vi bá đạo
của Thần Đao bảo. Hơn nữa, cùng là phận gái, nàng không muốn Tái Vân ngọc nát
châu trầm trong tay một gã quái vật như Tần Trọng Vỹ.
Thiết Đảm Hồng Nhan thừa cơ trí để hiểu kế sách của Tái Vân. Ngờ đâu, Lư Công
Đán vì khiếp nhược mà làm hỏng diệu kế ấu. Vả lại, Công Đán đã có lòng ái mộ
Tái Vân sao giờ có thể vì sợ chết mà bỏ nàng ta?
Phần Đông Nhạc Tiên Hồ cũng rất bẽ bàng trước sự phủ nhận mau mắn của gã chết
tiệt họ Lư. Song nàng thầm hy vọng rằng Tần Minh Viên vì thanh danh mà không
dám giết càn dẫu người nàng chọn lựa là ai cũng thế. Do đó, Tái Vân giả vờ
bình thản, cười khanh khách :
Nói xong nàng quay lại nhìn đám nam nhân đồng hành, cố tìm nhanh một đối
tượng. Khổ thay hầu hết bọn họ đều ngoảnh đi hoặc cúi mặt, chẳng muốn dính
vào, mặc dù trước đây vài khắc họ luôn nhìn nàng bằng cặp mắt đắm say, tôn
thờ.
Chỉ có chàng rậm râu Hàn Thiếu Lăng là đang thì thầm to nhỏ gì đó với Thiết
Đảm Hồng Nhan. Và chàng còn mỉm cười nữa.
Thực ra, lúc ấy Tử Khuê nói với Tống Thụy thế này :
Quả y như rằng, Đông Nhạc Tiên Hồ cất giọng ngọt ngào gọi :
Giọng nàng hơi run vì sợ rằng gã họ Hàn cũng chết nhát như Lư Công Đán thì
nguy to. Nhưng may thay Hàn Thiếu Lăng đã xuống ngựa bước đến cạnh nàng, ôm
quyền ngượng nghịu nói với Tần Minh Viên :
Thấy dáng vẻ ngượng ngùng, gượng gạo của Tử Khuê, Tần Minh Viên đoán ngay ra
ngụy kế của Dịch Tái Vân, lão thầm suy nghĩ :
Tần Minh Viên nghiêm nghị bảo :
Dẫu ngươi có đúng là vị hôn phu của Tái Vân thì trước sau gì cũng bị ả bỏ rơi.
Nay lão phu thương ngươi cốt cách anh hùng nên mới cảnh tỉnh như thế. Và nếu
ngươi chịu nghe lời giáo huấn ấy, từ bỏ Dịch Tái Vân thì lão phu sẽ thưởng cho
ba ngàn lượng vàng.
Bọn Lư Công Đán bàng hoàng tiếc rẻ, không ngờ chỉ với chút can đảm mà Hàn
Thiếu Lăng lại vớ được món hời. Té ra, Tần Minh Viên chỉ lới tiếng hù dọa chứ
không dám giết người, và còn sẵn sàng ném vàng ra để giải quyết êm xuôi.
Đông Nhạc Tiên Hồ cũng không nghĩ đến thủ đoạn phi thường này của Tần lão,
lòng rất lo sợ Hàn Thiếu Lăng tham vàng mà chối bỏ mình. Trong cơn bối rối,
Tái Vân buột miệng thề độc :
Tình cờ, khi nàng vừa nói xong từ xa xa vọng lại tiếng sấm ì ầm cứ như là lão
Thiên Lôi mỏ nhọ biểu hiện sự chứng thực của mình vậy.
Tái Vân ghê sợ gã quái thai Tần Trọng Vỹ đến mức mất cả hồn vía, sẵn sàng lấy
bất cứ ai, trừ gã ta. Tử Khuê nghe lời thề thốt ấy mà hoảng vía than thầm :
Chàng gượng cười trả lời Tái Vân :
Đang cơn nguy cấp, Đông Nhạc Tiên Hồ chẳng còn tâm trí đâu mà cò kè, mặc cả.
Nàng gật đầy ngay :
Người chung quanh dở khóc dở cười, chẳng hiểu Hàn Thiếu Lăng điên hay tỉnh? Đã
lấy được thiên hạ đệ nhất mỹ nhân mà gã chưa thỏa lòng, còn đòi thêm vài cô vợ
nữa.
Tử Khuê an bài xong gia sự, yên lòng phúc đáp Trần Minh Viên :
Tần bảo chủ biết mình đã thua, đứng ngẩn ngơ một lúc lâu. Hình dáng gầy gò,
thảm hại của đứa con yêu hiện ra khiến lão đau lòng khôn xiết. Nghĩ đến cảnh
mất con và tuyệt tự, Tần lão phát điên lên, cơ hồ chẳng còn màng đến thanh
danh nữa. Nhưng Tần Minh Viên là kẻ cơ trí, thức ngộ rằng phe đối phương đang
đi đến Kỹ gia trang, nơi sẽ là đấu trường đẫm máu và lão còn nhiều cơ hội để
ám sát Hàn Thiếu Lăng giành lại con dâu.
Do chủ ý này mà Tần lão cố nhẫn nại, ra hiệu rút quân. Mai phục không còn, bọn
Tử Khuê tiếp tục lên đường nhưng ai nấy lặng lẽ như đưa đám, chẳng nói tiếng
nào.
Lư Công Đán và bọn hào khách Nam Dương thì hổ thẹn, Dịch Tái Vân thì bối rối
và hối hận. Nàng thầm đào mồ cuốc mả Tần Minh Viên ra mà nguyền rủa. Lão ta và
đứa con chết tiệt đã xô đẩy nàng vào bước đường cùng, phải chịu lấy họ Hàn.
Nhưng nàng là thạch nữ, lấy chồng làm gì cơ chứ?
Được hơn dặm, đoàn người dừng chân ở quán nước bên đường để giải khát. Nhân
dịp này, Dịch Tái Vân ấp úng nói với Tử Khuê :
Bọn Thiết Đảm Hồng Nhan hồi hộp dán mắt vào Tử Khuê, chờ xem chàng phúc đáp
thế nào. Trong thâm tâm, họ đoán rằng chàng sẽ không chịu bỏ lỡ cơ hội làm
chồng người đàn bà đẹp nhất võ lâm.
Ngờ đâu gã họ Hàn tốt phúc kia lại trầm ngâm đáp :
Đông Nhạc Tiên Hồ cũng chẳng giàu có gì nên mới khuất thân làm nghĩa nữ của Âu
Dương Mẫn. Nay không phải mất ngàn lượng vàng thì nàng mừng húm, hớn hở hứa
ngay :
Tử Khuê hài lòng gật đầu tuyên bố :
Đông Nhạc Tiên Hồ cảm động trước tấm lòng rộng rãi, cao cả của đối phương liền
vái dài, thành thực đáp :
Đúng lúc này mặt đất rung rinh vó ngựa ầm ầm, dồn dập của một đoàn kỵ sĩ đông
đến mấy trăm đang trẩy quân qua. Mọi người nhìn ra thì thấy thấp thoáng lá đại
kỳ võ lâm đang phần phật tung bay trong gió hạ. Dịch Tái Vân mừng rỡ nói mau :
Thế là nàng chụp lấy tay nải, lao vút ra ngoài, nhảy lên lưng ngựa đuổi theo
Âu Dương Mẫn. Thì ra, Tái Vân chỉ hứa suông với Tử Khuê mà thôi.
Thiết Đảm Hồng Nhan bật cười, chế giễu Tử Khuê :
Tử Khuê cười khà khà chống chế :
-Tống sư muội không biết đấy thôi. Lão lôi công kia vừa hẹp hòi vừa thù dai, chẳng để Tái Vân qua mặt đâu.