Người đăng: tieulongkute
Cuối tháng 10 năm ấy, có một chàng đạo sĩ trẻ cưỡi ngựa chậm rãi đi vào thành
Quan Hóa, cách ranh giới Bắc Hà và Hồ Nam vài dặm.
Chàng ta có nét mặt và ánh mắt trong sáng, ngây thơ tuổi đôi mươi. Trán cao,
mũi thẳng. Mắt sáng miệng rộng và những nét mặt đẹp của nam nhân nhưng chưa đủ
để tạo nên một Phan An hay Tống Ngọc vì kèm một vài khuyết điểm đầu của mũi
dọc dừa ấy hơi nhọn, còn đôi môi của miệng rộng thì khá dầy.
Tóm lại vị đạo sĩ trẻ này có một dung nhan kha khá chứ không thể gọi là toàn
mỹ nam tử. Tuy nhiên cổ nhân đã có câu: “Trai tài gái sắc”, nên giá trị của
đàn ông chẳng phải ở bên ngoài như đám hồng nhan.
Bộ đạo bào xanh còn lấm bụi đường chứng tỏ cái kẻ muốn thành tiên kia vừa trải
qua một cuộc hành trình thiên lý. Chàng đạo sĩ dừng cương trước Kiều Hương đại
phạn điếm, cẩn thận đọc kỹ mảnh giấy lớn dán cạnh cửa quán rồi mới xuống ngựa.
Trên giấy ấy ghi rằng :
“Bổn điếm có bán cả những món chay ngon nhất Hồ Bắc”
Té ra chàng đạo sĩ này ăn chay chứ không phải lén phá giới khi có dịp hạ sơn.
Gia tiểu nhị hớn hở chạy ra đỡ lấy dây cương và hớn hở nói :
Chắc là gã ta không dám nói láo vì trong quán đang hiện diện khá đông những
đạo sĩ của núi Võ Đương.
Rất dễ nhận ra đám đồ tử đồ tôn của Trương Tam Phong vì thời ấy họ mặc đạo bào
trắng, vạt áo trước và lưng áo đều có thêu hình thái cực đồ bằng chỉ màu tím
than.
Phái Hoa Sơn chọn áo xanh nhạt, hình thái cực màu đen. Phái Toàn Chân chọn đạo
bào màu vàng đất. Còn Thiên Sư giáo thì chọn đạo bào đủ màu song thêu hình bát
quái bằng chỉ đen.
Riêng chàng đạo sĩ mới xuất hiện thì chẳng rõ được chi phái nào, trong đạo
giáo và đạo bào không một nét thêu thùa, đầu không mũ mạo. Nhưng kiểu áo và
búi tóc thì đúng là kẻ thờ Tam Thanh.
Chàng ta chắc mới xuống núi lần đầu nên cử chỉ rụt rè, thận trọng, ánh mắt bỡ
ngỡ và đầy vẻ háo hức, tò mò.
Đám đệ tử Võ Đương trong quán cũng hiếu kỳ, chăm chú nhìn kẻ mới đến vì phát
hiện chàng kia không cùng môn phái. Họ thắc mắc và cố đoán xem đối phương xuất
thân từ cửa nào.
Nhưng tất nhiên những thực khách quay lưng ra ngoài thì không thấy và không để
ý Nền văn hóa hơn bốn ngàn năm chẳng hề giúp cho người Trung Hoa bỏ được cái
tật khạc nhổ bừa bãi. Họ thản nhiên gieo cái thứ đờm dãi nhầy nhụa ấy chung
quanh chỗ mình ngồi, nhất là trong quán.
Bởi thế cho nên sàn gạch của Kiều Hương đại phạn điếm có rất nhiều những vệt
xanh vàng nhớp nhúa. Tệ hơn thế nữa, có kẻ còn quăng vỏ chuối xuống nền nhà,
tất nhiên là gần với chỗ ngồi chứ không đến nỗi ra giữa đường đi.
Nhưng khổ thay vị đạo sĩ trẻ không môn không phái mới xuất hiện lại là người
ưa sạch sẽ và có thói quen quan sát rất kỹ đoạn đường mà mình sẽ đặt chân.
Chàng ta nhăn mặt ghê tởm và cố tránh những cục đờm vương vãi đầy mặt đất.
Dáng đi ngập ngừng xiêu vẹo ấy khiến thực khách cười thầm.
Tiếc rằng lại có nhiều kẻ mới ra đời sinh nhầm phải ngôi sao xấu, vận mạng đen
đủi thì dù có cẩn thận cách mấy cũng hoài công, khi chàng đạo sĩ trẻ tuổi bước
xéo sang mé hữu để tránh vài bãi đờm thì tình cờ có một thực khách khoan khoái
buông rơi cái vỏ chuối, đúng vào vị trí mà bàn chân phải của chàng đạo sĩ đặt
xuống. Thế là nạn nhân trượt chân, ngã sấp mặt xuống nền gạch vừa dơ vừa cứng.
Giờ thì chúng ta đã biết kẻ xui tận mạng ấy là Quách Tử Khuê chứ chẳng còn ai
vào đây nữa. May thay, hiện nay Tử Khuê đã có một bản lĩnh võ nghệ cao siêu,
phản ứng cực kỳ nhanh nhẹn. Chàng lập tức vươn tay hữu, hai ngón trỏ và giữa
điểm xuống mặt gạch đẩy ngược thân thể đứng lên song mảnh vỏ chuối vẫn còn
dính ở đế giày phải nên chân phải chàng trượt về phía trước, khiến người suýt
ngã ngửa. Tử Khuê loạng choạng một hồi mới vững tấc, mặt đỏ gay vì hổ thẹn và
vì tiếng cười nắc nẻ của gần trăm thực khách.
Tử Khuê lúng ta lúng túng bước thêm ít bước đến ngồi ở một bàn trống.
Chàng gọi cơm chay vừa ăn vừa ngao ngán cho cái số mạng đen như mõm chó của
mình. Song chàng nhớ lời dạy của ân sư và thôi không rầu rĩ nữa.
Vu Mộc chân nhân đã từng bảo rằng: “Trong phúc có họa nên người đắc phúc chớ
vội mừng. Trong họa có phúc nên người xui xẻo chớ nên buồn. Do đó bậc Chân
nhân sống bình dị mà đợi mệnh trời, xem sinh tử, họa phúc, được mất chỉ là
một”.
Nghĩ đến đây chàng thanh niên nở một nụ cười rất tươi khiến vài vị đạo cô Võ
Đương phải xao xuyến. Nãy giờ họ len lén liếc nhìn vị đạo hữu lạ mặt với ánh
mắt ái mộ. Chàng ta có gương mặt rất dễ mến và một vẻ rụt rè, nhút nhát khiến
các nàng nữ hiệp hào khí can văn sinh lòng thương xót, muốn ra tay chỉ dạy,
bao bọc. Song họ chợt phát hiện ra rằng đối phương có nụ cười đầy nam tính và
vô cùng quyến rũ.
Phái Võ Đương không cấm đệ tử kết hôn nên các nữ đạo cô đua nhau hạ sơn hành
hiệp tìm cho mình một tấm chồng ưng ý. Bọn nam đạo sĩ cũng thế, khiến cho
lượng hiệp khách xuất thân từ Võ Đương rất đông gây dựng thanh danh môn phái
ngày càng hiển hách.
Tất nhiên là những người này xuất thân từ nhà giàu khá giả mới có tiền mua
ngựa và lộ phí để tiêu xài trên đường phiêu bạt. Kẻ xuất gia chân chính thường
nghèo rớt mồng tơi. Do đó, đại đa số hiệp sĩ Võ Đương dương danh chốn giang hồ
đều là đệ tử tục gia.
Lúc còn học nghệ trên núi thì họ mặc đạo bào, ăn chay, tụng kinh song khi hạ
sơn thì chẳng cần giữ giới. Họ mặc những bộ võ phục bằng gấm lụa thượng hạng
nhưng vẫn chuộng màu trắng hoặc tuyệt bạch và vạt áo thêu một hình thái cực dồ
tím nhỏ cỡ bàn tay. Được làm đệ tử phái Võ Đương là một vinh dự rất lớn.
Võ Đương ẩn mình trong địa phận Hồ Bắc nên các nhà quyền quý giàu có đều gởi
con em đến học võ. Đây cũng là một kế sách lâu dài trong kinh doanh vì khi gặp
nạn có thể cầu cứu phái Võ Đương hỗ trợ.
Điểm khá đặc biệt cần lưu ý là số nữ đệ tử tục gia của núi Võ Đương rất đông,
hơn hẳn các phái trong thiên hạ. Điều này không khó hiểu vì nữ nhân chẳng thể
múa côn, múa thương hay đánh đao được. Vũ khí thích hợp với họ chính là trường
kiếm. Mà kiếm thuật của Trương Tam Phong thì đứng đầu võ lâm. Cho nên cả những
người ở xa Hồ Bắc cũng lặn lội đến núi Võ Đương xin học nghệ.
Những kiến thức ấy Quách Tử Khuê được ân sư truyền thụ lại. Vu Mộc chân nhân
đã đem kinh nghiệm giang hồ mấy chục năm dốc vào cái đầu non nớt của chàng.
Giờ đây, Tử Khuê thích thú quan sát những bậc anh hùng trẻ tuổi của phái Võ
Đương một cách kín đáo, tế nhị, vì sợ họ nổi giận.
Chàng lắng nghe và biết họ đều từ phương xa, trở về để dự lễ thượng thọ bảy
mươi mốt của Chưởng môn nhân vào ngày đầu tháng mười một, tức ngày mai.
Tử Khuê bất giác sinh lòng ngưỡng mộ những bậc hiệp sĩ trẻ tuổi ấy và ước ao
được như họ. Chàng chỉ ái ngại rằng võ nghệ của mình còn kém cỏi, chẳng thể
vẫy vùng ngang dọc như đám đệ tử Võ Đương kia, Tử Khuê không biết rằng bản
lãnh của chàng hiện nay còn cao hơn vài cao thủ lão thành phái Võ Đương.
Vu Mộc chân nhân suốt đời khiêm tốn, luôn bịt mặt lúc so tài với các cao thủ
trong thiên hạ, chủ yếu để nghiên cứu võ thuật, nên khi thấy đủ là nhận bại và
rút lui. Do đó Chân nhân chẩng có tiếng tăm gì và rất ít người biết bản lãnh
siêu quần bạt tụy của ông.
Tất nhiên, Chân nhân cũng không khoe với đồ đệ mình là Võ lâm Đệ nhất cao thủ,
lại còn dặn dò Tử Khuê phải thận trọng, khiêm cung để toàn sinh.
Tử Khuê cũng không tránh khỏi rung động trước vài gương mặt xinh đẹp trong đám
đạo cô phái Võ Đương. Chàng đang tuổi hoa niên, lòng dễ bị xao xuyến trước
nhan sắc của nữ nhân.
Các nàng cũng phát hiện ánh mắt ái mộ của chàng nên cũng đã ban phát vài nụ
cười khuyến khích khiến trái tim chàng trai khờ khạo đập liên hồi.
Tử Khuê đang ngây ngất hưởng thụ cảm giác ôn nhu ấy thì nghe cả quán kêu lên :
Và gần trăm đệ tử Võ Đương cả nam lẫn nữ nhất loạt đứng lên, hoan hỉ gọi léo
nhéo, chào đón vị khách mới đến. Kẻ thì sư huynh, người sư đệ... om sòm cả
phạn điếm.
Cao giọng nhất vẫn là bọn đạo cô, ai cũng rống lên như sợ mất phần vậy. Tử
Khuê bị bỏ rơi chìm vào cảm giác ê chề, hụt hẫng. Chàng ngán ngẩm dõi mắt quan
sát người mới đến. Nhận ra Võ Đương Thần Kiếm là một nam nhân khả ái ngời
ngời. Gã ta tuổi độ tam thập thân hình cao lớn tráng kiện và mặt mũi thì đẹp
như tiên, phong thái của gã hiên ngang, oai vũ và không kém phần văn nhã. Loại
nam nhân như Võ Đương Thần Kiếm có thể chinh phục bất cứ trái tim nữ nhân nào
dù là tiết hạnh khả phong.
Tử Khuê nhờ sự giáo huấn của sư phụ mà rành rọt lai lịch hầu hết các cao thủ
thành danh trong thiên hạ. Chàng hiểu Võ Đương Thần Kiếm tên gọi Mộ Duy Lộ, ba
mươi hai tuổi, con nhà đại phú đất Nghi Xương. Mộ Duy Lộ mang vạn lượng vàng
đến bái sư, nên được Chưởng môn phái Võ Đương là Văn Thiện Tử đặc cách nhận
làm đệ tử tục gia. Theo quy củ của Võ Đương thì học trò Chưởng môn bắt buộc
phải xuất gia, suốt đời chay tịnh.
Mộ Duy Lộ có căn cơ võ học rất tốt, lại siêng năng cần mẫn, nên bản lĩnh tăng
tiến mau chóng vượt xa bạn đồng môn. Sau mười năm rèn luyện, võ công của gã
chỉ thua Vân Thiên Tử và bốn vị sư thúc. Mộ Duy Lộ được xem là đóa kỳ hoa của
phái Võ Đương, ai nấy đều yêu mến.
Gã hạ sơn năm hai mươi bốn tuổi, ngang dọc giang hồ trừ gian, diệt bạo, cứu
khổ phò nguy, được đời ca tụng là Võ Đương Thần Kiếm.
Tóm lại, Mộ Duy Lộ là kẻ da bọc điều, có đủ những điều kiện tốt nhất, dung
mạo, gia thế, võ công, thanh danh. Bởi vậy cho nên gã trở thành thần tượng của
mấy trăm nữ đệ tử chưa chồng phái Võ Đương, cũng như rất nhiều khuê nữ khác ở
đất Hồ Bắc.
Khổ thay, Mộ Duy Lộ lại kiêu ngạo phi thường chẳng chịu trao trái tim mình cho
bóng hình nào cả. Gã luôn dịu dàng, hòa ái vá vui vẻ đón nhận nhũng hiến dâng
mà không hề hứa hẹn hoặc vướng vào lưới nhện của ai. Mộ Duy Lộ đã lần lượi bỏ
rơi vài tá nữ nhân song chẳng hề mang tiếng háo sắc hay bạc tình. Nạn nhân
lặng lẽ chấp nhận thiệt thòi và còn xem đoạn ân tình ngắn ngủi kia là kỷ niệm
khó phai. Nghĩa là Mộ Duy Lộ đã đạt đến trình dộ thượng thừa của nghệ thuật
chinh phục đàn bà.
Tử Khuê cay đắng hiểu rằng mình hoàn toàn thua sút cái gã chết tiệt Mộ Duy Lộ
kia. Song chàng chợt cau mày khi nhớ lại lời nhận xét của ân sư. Vu Mộc chân
nhân đã nói thế này: “Bậc quân tử không lấy cái mình không đáng được nhận, Mộ
Duy Lộ là kẻ bất nhân, bất nghĩa nên mới lường gạt đám thiếu nữ ngây thơ, khờ
dại. Sau này thanh danh Võ Đương sẽ vì hắn mà tan nát”.
Tử Khuê thở dài tiếc cho một bậc tài mạo xuất chúng chỉ vì tâm bất chính mà sa
vào ma đạo, trở thành tai họa của nhân quần xã hội. Và chàng cũng thầm cao
hứng, tự nhủ rằng mình hơn được đối phương ở phần nhân phẩm. Đố kỵ và so sánh
là cố tật của loài người, nhất là kẻ thanh xuân, những kẻ chưa hiểu rõ chính
mình cũng như cuộc thế vô thường này.
Tử Khuê bình tâm quan sát cái cảnh Võ Đương Thần Kiếm tiếp xúc với đồng môn.
Mộ Duy Lộ có giọng nói trầm ấm, ngọt như mía lùi, ngôn từ thì khôn khéo, dí
dỏm, khiến người nghe phải ngất ngây. Còn ánh mắt gã nhìn các đạo cô thì chan
chứa ân tình như gọi mời, như hò hẹn. Với phong thái ấy, gã chẳng cần phải tán
tỉnh cũng có nhiều nàng xuân nữ hiểu lầm mà trao trọn trái tim non. Nhưng Mộ
Duy Lộ rất khôn ngoan, luôn giữ phương châm: “làm đĩ chín phương, chừa một
phương lấy chồng”, nghĩa là gã không bao giờ dây dưa đến đám nữ đồng môn.
Sắp đến giữa giờ Ngọ thì Kiều Hương đại phạn điếm có thêm vài chục thực khách,
đa số là đại biểu của những phái, bang hội lớn như Thiếu Lâm, Hoa Sơn, Toàn
Chân, Thiên Sư giáo, Võ Đương.
Quang Hóa là khu thị đô duy nhất nằm gần Võ Đương nên các khách khứa phải ghé
đây ăn bữa trưa rồi lên núi. Nhưng cũng có những người ở lại đây đến sáng mai,
sẽ chẳng dại gì đi sớm để phải nuốt những món chay nhạt nhẽo và giữ vẻ trang
nghiêm trên thánh địa của đạo giáo.
Khách đến chúc thọ đều thuộc hạng trưởng bối nên đám đệ tử Võ Đương phải một
phen khom lưng thí lễ. Qua những lời xưng hô, chào hỏi ấy, Tử Khuê biết được
thân phận của các vị khách mới đến. Chàng phấn khởi trố mắt nhìn những bậc cao
nhân với niềm tôn kính, định đứng lên thi lễ song họ lại chẳng màng đến nên
thôi.
Phái Võ Đương đang thời kỳ hùng mạnh, cùng Thiếu Lâm tự nhận lời tôn xưng
“Thái Sơn Bắc Đẩu”. Vân Thiên Tử còn là người đứng đầu Hội đồng Võ lâm nên năm
vị Chưởng môn kia đều đích thân đến mừng thọ. Họ gồm có :
Đại Giác thiền sư, Phương trượng của chùa Thiếu Lâm.
Tùng Xuân Tử, Chưởng môn phái Toàn Chân.
Trúc Lâm Tử, Chưởng môn phái Hoa Sơn.
Huyền Thiên Chân Quân Tương Sách, tức Trương Thiên Sư của núi Long Hổ sơn.
Thất Bổng Cái Thạch Kính Tường, Bang chủ Cái bang.
Năm người này là tôn sư các phái lớn nên đều có tùy tùng theo hộ vệ, hầu hạ,
cho nên nhân số mới lên đến hơn hai chục người.
Kiều Hương đại phạn điếm tuy chỉ có một tầng song rất rộng rãi, bày đủ sáu
chục bàn, chẳng sợ thiếu chỗ.
Võ Đương Thần Kiếm lập tức đến bàn của năm vị Chưởng môn để vấn an.
Tuy thuộc hàng hậu bối song gã được họ đối xử rất trọng hậu vì những khoản
cúng đường rất lớn của Mộ Dung gia trang.
Bản thân kẻ tu hành thì không cần vàng bạc nhưng sự tồn tại của một môn phái
lại đòi hỏi ngân sách dồi dào.
Mộ Duy Lộ đã thi hành chiến thuật “phóng tài hóa thu phục nhân tâm”.
Gã mua chuộc Hội đồng Võ lâm y như mua những nàng trinh nữ trong đời mình. Võ
Đương Thần Kiếm không đồng hành với nữ nhân nào quá ba tháng.
Trong thời gian ấy gã cung phụng cho nữ nhân vàng bạc, châu báu, lụa là, gấm
vóc, những món ăn sơn hào hải vị và những cuộc du ngoạn đắt tiền. Không một nữ
nhân nào có thể từ chối những tặng vật hậu hĩnh ấy cả. Thích ăn ngon, mặc đẹp,
đeo nữ trang chính là bản năng của đàn bà.
Nữ nhân say đắm Mộ Duy Lộ vì gã tài mạo song toàn và cũng vì cảm kích trước
những ân sủng. Họ mê muội hiến dâng để rồi nuốt lệ chia tay. Họ cắn răng chấp
nhận vì Mộ Duy Lộ tuyên bố trước rằng gã sẽ sống độc thân đến tuổi tứ tuần để
hoàn thành lý tưởng là người hiệp nghĩa cứu khổ phò nguy, giáng ma vệ đạo.
Phải chăng chính những nữ nhân kia cũng có lỗi khi để những cám dỗ vật chất xa
hoa và cái đẹp mã của kẻ bạc tình mê muội?
Tử Khuê đang miên man suy nghĩ như thế thì giật mình bởi tiếng ghế khua. Tất
cả thực khách đã rời vị trí kẻ đứng người quỳ để đón tiếp ai đó. Chỉ có các
trưởng lão Chưởng môn mới được phép đứng, kỳ dư đều phải dập đầu hành lễ.
Tử Khuê nhận ra nhân vật được tôn kính cực kỳ ấy là một lão đạo sĩ áo đen cao
gầy, râu tóc hoa râm, tuổi độ thất tuần. Gương mặt xương xương của lão vô cùng
lạnh lẽo, còn ánh mắt thì sang quắc không kém phần lãnh đạm.
Tử Khuê bối rồi nhưng vẫn đứng lên chắp một tay nghiêng mình thi lễ theo lối
đạo gia. Chàng cho rằng đối phương nhỏ tuổi hơn sư phụ mình nên chưa xứng với
đại lễ. Hơn nữa, song phương chẳng hề quen biết.
Phương trượng Thiếu Lâm tự đã lên tiếng :
Nghe xong Tử Khuê lập tức nhớ ra lai lịch của lão đạo sĩ áo đen. Ông ta chính
là Cửu Hoa chân nhân Cổ Sĩ Hoành, tuổi độ bảy tư.
Đầu Hạ năm năm trước, tức năm Kỷ Dậu, nhân dịp khánh hạ tân đại hồng chung của
Thiếu Lâm tự, Chưởng môn, long đầu các phái lớn trong võ lâm đã đến chúc mừng,
đồng thời bàn bạc việc tổ chức Đại hội Võ Lâm sang năm.
Nào ngờ một ác ma bị truy tung nhiều năm, đột nhiên xuất hiện để báo thù. Độc
Tu La Địch Thăng đã ném vào giữa khu hành lễ một quả “Vong Mệnh thần lôi” làm
cho hơn trăm người thọ hại, trong đó hầu hết là những đại nhân vật câc phái,
kể cả Hội đồng Võ lâm.
Độc Tu La bị những người ở vòng ngoài vây chặt uy hiếp sinh mạng của lão để
đổi lấy thuốc giải. Nhưng Địch Thăng đã ngạo nghễ tuyên bố rằng chất độc kia
trên thế gian không ai giải được, rồi lão tự sát.
Diệu Thủ Thần Cơ Tư Mã Uy được mời đến song cũng phải bó tay, và các nạn nhân
chỉ còn cách nằm chờ chết. Họ không chết ngay mà ngắc ngoải hàng tháng trong
cảm giác đau đớn vô biên.
May thay, Cửu Hoa chân nhân đã lên núi Tung Sơn, đối chứng lập phương, tìm ra
giải dược cứu đủ một trăm sáu mươi bốn tinh hoa của võ lâm.
Cửu Hoa chân nhân không chịu nhận bất cứ sự đền ơn nào, chỉ lạnh lùng bảo
rằng: “Bần đạo chỉ cần chư vị học lấy đức khiêm cung như thế là đã đủ”.
Kể từ lúc ấy, Cửu Hoa chân nhân được tôn xưng là Thánh Y và được hưởng sự tôn
kính tuyệt đối của hội đồng Minh chủ. Nhưng ông ta ít khi xuống núi nên mọi
người chẳng có nhiều dịp để tỏ ra khiêm tốn.
Nhắc lại sau khi nghe xong câu nói của Đại Giác thiền sư, Cửu Hoa Thánh Y phất
tay áo nghiêm nghị trách :
Thi lễ mà không lòng kính thì cũng vô ích.
Rồi ông chỉ vào Tử Khuê mà nói tiếp :
Lời chê trách của Chân nhân đã khiến các Chưởng môn và đệ tử của sáu phái bẽ
bàng, bực bội nhìn cái kẻ đã được khen, khiến Tử Khuê ngượng ngùng đỏ mặt.
Thất Bổng Cái Thạch Kính Tường là bằng hữu thâm giao với Cửu Hoa chân nhân, dù
nhỏ hơn gần chục tuổi. Chính vì thế mà đệ tử Cái bang mới biết Cổ Sĩ Hoàng
tinh thông y học, đi mời đến chữa trị cho Bang chủ và những nạn nhân khác.
Thất Bổng Cái quá rõ tính nết quái dị của Cửu Hoa chân nhân, liền cười khanh
khách bảo :
Cửu Hoa Thánh Y lộ vẻ ngạc nhiên thất vọng :
Câu này như gáo nước lạnh dội vào đầu bọn đệ tử Võ Đương đang hiện diện.
Mộ Duy Lộ là người kiêu ngạo, bước ra vòng tay nói :
Đám nữ đệ tử Võ Đương phấn khởi cổ vũ cho thần tượng :
Cửu Hoa chân nhân ngắm nghía Mộ Duy Lộ một lúc rồi cười ruồi :
Mộ Duy Lộ bị chê bai quá cỡ như vậy nên lửa giận bừng bừng, mặt đỏ gay, gã
cười nhạt đáp :
Cửu Hoa chân nhân lạnh lùng lắc đầu :
Lời chính khí ấy khiến toàn trường chết lặng song không cảnh tỉnh nổi kẻ u mê.
Mộ Duy Lộ nhếch mép cười ngạo nghễ :
Đôi mắt đẹp của gã lộ đấy sát khí khiến Tử Khuê sợ nhũn cả người.
Chàng vội lung túng thoái thác :
Cửu Hoa chân nhân trừng mặt nạt :
Tử Khuê rầu rĩ biện bạch :
Tùng Xuân Tử Chưởng môn phái Toần Chân ngơ ngác hỏi chàng :
Tử Khuê ấp úng đáp :
Thất Bổng Cái phá lên cười sằng sặc, nói với Cửu Hoa chân nhân :
Toàn trường ồ lên cười khoái trá, mỉa mai Cổ Sĩ Hoàng. Nhưng Cổ chân nhân vẫn
thản nhiên, dịu giọng hỏi Tử Khuê :
Vu Diệp chính là đảo chuyển của Quách Tử Khuê, do chàng cầu khấn sư phụ ban
cho. Tuy không xuất gia song Tử Khuê vẫn tự xem mình là một đệ tử Tam Thanh.
Tử Khuê nghe hỏi vậy bỡ ngỡ trả lời :
Cổ chân nhân hài lòng, gật gù nói tiếp :
Tử Khuê choáng váng trước đề nghị hấp dẫn kia, tim đập thình thịch, cứ phân
vân chẳng biết phải làm sao. Chàng hiểu rằng hai viên linh đan nọ cực kỳ quý
giá và rất cần cho cha mẹ mình. Vả lại, phụ thân chàng tuổi đã cao, thường
xuyên bệnh hoạn, lòng hiếu thảo đã khiến Tử Khuê bớt sợ hãi rụt rè hỏi lại :
Cổ Sĩ Hoàng gật đầu, móc ra chiếc lọ ngọc bước đến trao cho chàng và bảo :
Tử Khuê ngập ngừng thò tay nhận lấy cẩn thận nhét vào dải thắt lưng quần. Bỗng
chàng nghe bên tai có tiếng người thì thầm, nhỏ như tiếng muỗi vo ve :
Tử Khuê cố nén nỗi vui mừng bởi tìm được vị sư thúc hành tung kỳ bí, đúng như
di ngôn của ân sư dặn dò. Đồng thời, chàng cũng thêm phần tự tin vào bản lãnh
vì biết sư thúc chẳng bao giờ đưa mình vào chỗ chết. Nghĩa là ông biết chàng
có thể thắng được Mộ Duy Lộ. Và nếu như làm được điều ấy thì quả là tuyệt
diệu.
Tử Khuê nghe bầu nhiệt huyết sôi lên, khẽ gật đầu tỏ vẻ đã thông suốt.
Toàn bộ thực khách rời quán, kéo ra mảnh đất rộng phía sau. Nơi này trước đây
có lẽ là vườn hoa song giờ đã thành chốn đậu xe và cột ngựa. Dọc theo hai bức
tường Đông Tây là dãy chuồng ngựa san sát.
Năm nay tuyết rơi muộn song trời vẫn lạnh căm căm, cây cỏ tiêu điều xơ xác,
ánh dương nhạt nhòa dù là đang giờ Ngọ.
Võ Đương Thần Kiếm cởi chiếc áo khinh cừu trắng muốt trao cho một đồng môn. Là
đệ tử tục gia nên Mộ Duy Lộ không mặc đạo bào. Bộ võ phục màu nguyệt bạch,
bằng gấm Hàng Châu thượng hạng, mép vạt thêu hoa văn chỉ tím ôm sát lấy thân
hình cường tráng của gã và làm nổi bật lên những cơ bắp cuồn cuộn.
Tử Khuê không có áo cừu để cởi vì đã quen với cái lạnh thấu xương của vùng núi
non Tứ Xuyên. Chàng đã nhường áo lông cừu của mình cho sư phụ.
Giờ đây, trong tấm đạo bào thùng thình bằng vải xấu, trông chàng chằng chút
oai phong, kém xa đối thủ.
Đứng trước một cao thủ thành danh và cao lớn hơn mình, trong lòng Tử Khuê
không khỏi có chút lo lắng, sợ hãi. Nhất là khi bọn đệ tử Võ Đương cứ ngoác
miệng cổ vũ cho Mộ Duy Lộ. Nhưng bỗng Tử Khuê phát hiện trong hàng ngũ đối
phương có một cặp mắt nhung huyền đang nhìn mình một vẻ khuyến khích, mong
đợi.
Đấy là một đạo cô tuổi độ đôi tám, đôi chín, đầu mũ vải đen, chứng tỏ đã xuất
gia chứ không phải tục gia đệ tử.
Nhan sắc của nàng ta không rực rỡ, sắc sảo song ngũ quan đoan chính, trán cao
thanh thoát. Và ánh mắt này rất sinh động, tựa như biết cười, biểu lộ một tính
cách tinh minh, thông tuệ.
Khi nhận ra Tử Khuê nhìn mình, vị tiểu đạo cô kia đã nở nụ cười ấm áp rồi nháy
mắt vời chàng.
Tử Khuê ngây ngất và nghe dũng khí hừng hực lan tỏa khắp châu thân.
Chàng không thể để mất mặt với kẻ đã ngưỡng mộ mình.
Thực ra, Tử Khuê không phải kẻ hèn nhát. Chẳng qua suốt một thời thơ ấu, chàng
luôn gặp tai họa và luôn được mẫu thân dặn dò cẩn trọng, nên đởm lược tiêu
tan. Nay có người này đỡ tinh thần, Tử Khuê vượt qua được sự e dè thiếu tự
tin, bình thản bước vào cuộc chiến.
Chàng rút kiếm ra, nghiêm trang dựng trước mặt. Chuôi kiếm bằng đồng đã lạnh
tanh vì gió đông làm tê cả lớp da lòng bàn tay hữu. Nhưng chính hơi thép lạnh
đã biến Tử Khuê thành một người khác.
Tổng cộng, chàng đã có mười hai năm khổ luyện kiếm thuật, nhờ ngộ tính cao mà
đạt đến trình độ thượng thừa, tâm và kiếm hòa làm một. Giờ đây, lòng chàng
phẳng lặng như gương, không chút bụi tạp niệm và tất nhiên chẳng còn cảm giác
sợ hãi.
Hơn nữa, thanh trường kiếm này vốn là vũ khí tùy thân của mẫu thân chàng năm
xưa. Trước khi rời bỏ kiếp giang hồ, Băng Tâm Ma Nữ Kỹ Thanh Lam đã đến Vũ
Lương sơn thăm Vu Mộc chân nhân và gởi bảo kiếm.
Tử Khuê kính yêu từ mẫu nhất trên đời và hãnh diện về quá khứ oai hùng của bà
như bất cứ đứa trẻ nào khác. Kỹ nương chỉ tiêu diệt kẻ ác và chưa hề giết lầm.
Có điều là thủ đoạn của bà quá quyết liệt, không phù hợp với đức hiều sinh của
trời đất.
Giờ đây, Tử Khuê không thể làm nhục lưỡi gươm hào hùng của mẫu thân. Có thể là
do chưa hề gặp cường địch nên Băng Tâm Ma Nữ luôn chiến thắng. Tử Khuê là
người học đạo tất biết về thịnh suy tiến thoái, không mong trở thành vô địch,
song ít nhất là phải thấng ở trận đấu đầu đời.
Hữu xạ tự nhiên hương. Nhưng bản lãnh của người kiếm sĩ cũng tựa như hương
thơm kín đáo của một loài hoa lạ, chỉ có những cái mũi tinh tế mới nhận ra
được.
Năm vị Chưởng môn nhân ngạc nhiên trước khí thế bất phàm của chàng kiếm thủ
trẻ măng, bèn quay lại nhìn Cửu Hoa Thánh Y với vẻ nghi ngờ.
Thất Bổng Cái vốn là người thẳng thắn, lên tiếng hỏi ngay :
Cửu Hoa chân nhân nghiêng người thì thầm vào tai người bạn vong niên, nghe
xong, Thất Bổng Cái tái mặt than :
Và Bang chủ Cái bang vội đi rỉ tai bốn vị Chưởng môn còn lại, ai nấy đều phiền
muộn lo lắng.
Lúc này, Tử Khuê đã xuất chiêu, theo lời mời ngạo nghễ của Võ Đương Thần Kiếm.
Chàng nhỏ tuổi hơn nên có quyền ra tay trước.
Tử Khuê không biết mình đã được ân sư truyền cho mười tám năm tu vi, tổng cộng
tròm trèm ba chục năm công lực, nên hơn hẳn đối phương. Bởi vậy, Tử Khuê sợ
thua thiệt nên đã dồn hết sức vào chiêu “Thanh Long Lộng Nguyệt”.
Mộ Duy Lộ cũng là kiếm thủ tài ba nên lập tức đề cao cảnh giác khi thấy trường
kiếm của đối phương hóa thành những chiếc mống bạc và phát ra những âm thanh
vun vút, rợn người. Những hiện tượng ấy chứng tỏ Vu Diệp có công lực cực kỳ
thâm hậu và đường gươm nhanh tựa sao sa. Chỉ có bậc kiếm sĩ thượng thừa mới
tạo ra được màn kiếm ảnh, không còn thấy thân kiếm đâu nữa.
Mộ Duy Lộ càng bội phần khiếp đảm khi những chiếc mống màu bạc kia ập đến
nhanh hơn gió. Nghĩa là khinh công của Vu Diệp cũng thuộc hang quán thế.
Mộ Duy Lộ nghiến răng xuất chiêu “Thanh Tùng Nghiêng Vũ”, công thủ vẹn toàn,
một trong những chiêu lợi hại nhất của Võ Đương kiếm pháp. Bảo kiếm trên tay
gã dệt nên một màn thép dày đặc và tua tủa những mũi thép nhọn hoắt, tựa như
tàn lá thông sum suê, rậm rạp đang chào đón trận mưa xuân. Núi Võ Đương trồng
rất nhiều cây tùng nên Trương chân nhân đã dùng tên của loài cây ấy đặt cho
vài chiêu kiếm.
Song phương chạm mặt, tiếng thép ngân vang, lúc thanh tao, khi chát chúa, nối
nhau không dứt. Khách quan chiến có thể thấy rõ là chín đạo kiếm quang như
móng rồng của Vũ Diệp đã bao trùm lấy chiếc tán thép xanh biếc quanh người Mộ
Duy Lộ.
Những chiếc mống bạc ấy đảo lộn trong không gian, liên tục vươn lên mục tiêu
hoặc lượn lờ chẳng khác gì rồng thiêng giữa trăng.
Cảnh tượng này vô cùng ngoạn mục làm say đắm người xem, song Mộ Duy Lộ thì
đang sợ đến toát mồ hôi hột. Chiếu móng rồng thứ chín luôn thập thò uy hiếp
bảy đại huyệt trên ngực và bụng của gã, trong lúc tám đạo kiếm ảnh còn lại bao
vây chặt chẽ, chẳng còn đường tránh né.
Nhưng may thay Mộ Duy Lộ chợt phát hiện đối phương có một sơ hở chết người,
liền mau chóng thọc mũi kiếm vào đấy. Quả nhiên Vu Diệp phải thoái bộ, bỏ lỡ
chiêu kiếm.
Mộ Duy Lộ phấn khởi xông lên, tấn công bằng chiêu “Thu Phong Xuy Lạp”, ảo diệu
và mãnh liệt phi thường. Vu Diệp lập tức bị hạ phong, rơi vào thế thủ.
Bọn Võ Đương mừng rỡ, reo hò vang dội khi thấy gà nhà đang thắng thế.
Quả đúng như vậy, Mộ Duy Lộ đã hiển lộ thần oai, ra đòn như bão táp mưa sa
khiến Vu Diệp chẳng thể phản kích được.
Nhưng hai khắc sau, dẫu xuất hạn dầm dề mà Võ Đương Thần Kiếm vẫn không sao đả
thương được đối thủ. Gã nóng ruột tăng thêm công lực, cố kết liễu trận đánh.
Chỉ có năm vị Chưởng môn và Cửu Hoa Thánh Y là biết Vu Diệp đang nhường nhịn,
cam tâm chịu thế hạ phong. Dẫu chàng có giả vờ lúng túng khi chiết chiêu thì
cũng không qua được mắt họ. Tử Khuê vốn là một kịch sĩ hạng bét. Chàng quên
rằng một kẻ kém tài chẳng thể duy trì hơn ba trăm chiêu mà không đổ mồ hôi.
Sau lần chạm chiêu đầu tiên Tử Khuê đã biết bản lãnh mình cao hơn Mộ Duy Lộ
vài bậc, cả về công lực lẫn nghề đánh kiếm. Vì thế, chàng cố tình lộ sơ hở để
đối phương phản kích. Sau đó Tử Khuê giảm bớt chân khí ở tay kiếm, thi triển
yếu quyết kiên thủ nhi an, bình thản giải phá những chiêu công quyết liệt của
kẻ địch.
Phòng thủ là sở trường số một của Vu Mộc chân nhân. Ông có thể cầm cự hàng
ngàn chiêu để nghiên cứu sở học của đối phương. Rốt cuộc, kẻ ấy kiệt sức mà bỏ
cuộc, chẳng thèm đánh nữa.
Chân nhân truyền thụ cái công phu nọ cho đồ đệ và Tử Khuê đã từng chịu đựng
được những trận đánh dài hàng canh giờ. Do chàng không bị ràng buộc bởi lời
thề giới sát nên trong lúc thử có thể phản công khi đối phương sơ hở.
“Thao Quang thần thức” là một môn võ công diệu kì, có riêng những chiêu thuộc
về tay tả để sử dụng phối hợp với kiếm pháp.
Tuyệt học của Nga Mi đạo giáo thuở xưa vốn gồm có năm môn: nội công, kiếm
thuật, quyền, chưởng, khinh công và y thuật. Lớp đệ tử cuối cùng chính là Vu
Mộc chân nhân, Thạch Long chân nhân, Kỳ Hoàng chân nhân tức là Cửu Hoa Thánh
Y. Mỗi người đã chọn sở trường cho mình chuyên luyện một hai môn.
Nhắc lại, trận đấu này đã giúp cho Tử Khuê đánh giá đúng bản lãnh vũ nghệ đích
thực của mình. Đồng thời chàng cũng phát hiện ra việc đã hoàn thành lớp thứ
bảy của “Thao Quang tâm pháp”. Khi vận vào bàn tay tả để điểm huyệt Mộ Duy Lộ,
chàng bàng hoàng nhận ra hai tia chân khí mờ nhạt, dài độ hai gang.
Tử Khuê ngờ ngợ hiểu ra, lòng vô cùng đau đớn và tiếc thương sư phụ.
Chàng cố nén thương tâm, khéo léo điểm từng huyệt đạo trên bụng Mộ Duy Lộ rồi
tìm cách bãi binh.
Trong giao đấu, kiếm kình cuồn cuộn uy hiếp da thịt nên Võ Đương Thần Kiếm
không hề phát hiện cảm giác đau nhè nhẹ khi bị điểm huyệt. Rõ ràng là bàn tay
của Vu Diệp chưa hề chạm đến người của gã.
Khi cây hương thời gian sắp cháy đến khắc thứ ba thì Cửu Hoa chân nhân lên
tiếng nhắc nhở. Tử Khuê hiểu ý vừa giật lùi vừa nói :
Ngoài kia, Cửu Hoa Thánh y cũng cao giọng :
Mộ Duy Lộ đang mệt muốn đứt hơi, mừng rỡ nhận lời ngay. Gã nhảy lùi lại tra
gươm vào vỏ, ra vẻ kể cả mà khen ngợi Vu Diệp.
Chợt gã phát hiện giọng nói mình nặng nhọc, thiếu hơi và toàn thân bải hoải,
nhớp nhúa mồ hôi, liền sượng sùng im bặt.
Tử Khuê hiểu thấu tim đen đối phương.
Mộ Duy Lộ tưởng thật, thầm nghĩ :
Nhưng hình bóng mỹ miều của Đông Nhạc Tiên Hồ hiện ra đầy cám dỗ, khiến gã
hiểu rằng mình không thể giảm bớt thú phong lưu. Người đàn bà ấy là báu vật số
một thế gian, mỵ lực mê hồn, chỉ nghĩ đến lòng đã nghe rạo rực.
Gã say đắm nàng ta đến mức sắn sàng bán cả hồn phách cho qủy dữ.
Vài ngày sau, Quách Tử Khuê sang đến địa phận Hà Nam, ghé vào huyện Trình ngủ
một đêm. Huyện Trình nằm giữa đoạn đường từ Quang Hóa đi Nam Dương.
Đây là một trong những trường hợp hiếm hoi mà tên của một dòng họ trở thành
tên địa phương.
Số là thế này ngày trước, khi Minh Thái Tổ Chu Nguyên Chương tấn công thành
Nam Dương thì gặp sự kháng cự quyết liệt của quân Mông Cổ.
Thành Nam Dương cực kỳ kiên cố và người Mông thì giỏi nghề cang tiễn. Do đó,
Chu Nguyên Chương hao binh tổn tướng rất nhiều, vây hãm thành hàng tháng mà
không sao phá được.
Lúc ấy, bỗng có một thế hào ở vùng ranh giới Hồ Bắc-Hà Nam mang gia đình đến
hỗ trợ quân Minh. Người này họ Trình, chuyên nghề nuôi ong lấy mật.
Vùng đất từ phía Nam thành Nam Dương đến Quang Hóa nằm trong vùng lưu vực của
hai con sông Bạch Hà và Doan Hà nên rất phì nhiêu. Ngày đó rừng ở huyện Trình
còn rất nhiều, lại gồm toàn những cây có hoa, nên nghề nuôi ong vô cùng phát
đạt và dòng họ Trình làm nghề này lâu đời nhất.
Tổ phụ họ Trình đã mang đến Nam Dương năm mươi đàn ong độc và điều khiển chúng
dễ dàng như người ta dạy chó vậy. Mấy vạn con ong vàng đen vằn vện ấy đã vô
hiệu hóa bọn cung thủ Mông Cổ trên mặt thành nên quân Minh ung dung cự mộc phá
cửa mà vào.
Chu Nguyên Chương vui mừng vô hạn liền ban cho Trình Phú Thứ tước Hoàng Phong
Hầu và đất đai. Sau này, khi thống nhất được giang sơn, phân chia địa giới
hành chính, huyện Trình đã được thành lập, trực thuộc phủ Nam Dương, tỉnh Hà
Nam.
Đấy là chuyện xa xưa, giờ đây người kế thừa của họ Trình là Nữ Hầu tước Trình
Thiên Kim, tuổi độ hăm ba.
Trình tiểu thư vẫn tiếp tục nghề nuôi ong mât, song lại còn tổ chức ra một
bang hội lấy tên là Hoàng Phong bang. Và đây là bang hội nhỏ duy nhất không
thèm đóng góp cho ngân quỹ của Tồng đàn Võ lâm.
Âu Dương Mẫn vô cùng cay cú song phải lờ đi vì cái tước Hầu của Trình Thiên
Kim, cũng như những đàn ong độc đáng sợ. Vị nữ Hầu tước ấy chẳng thể dùng độc
mà ám toán như đã làm với vài người khác. Còn như vu oan giá họa thì cũng
chẳng được vì quan lại địa phương đều là người họ Trình.
Sáng mùng sáu tháng mười một, Tử Khuê rời huyện Thành đi về hướng Nam Dương xế
chiều hôm sau thì đến Bạch Ngưu trấn. Đây là nơi mà Hầu phủ và Tổng đàn Hoàng
Phong bang tọa lạc. Quanh trấn toàn là rừng xanh và trảng cỏ đầy hoa, chốn
kiếm ăn của hàng ngàn đàn ong mật. Mật đắt hơn gạo nên cư dân trong trấn chẳng
thèm trồng lúa cứ việc bán mật mà mua ngũ cốc từ địa phương khác.
Tuyết bắt đầu rơi lất phất nên ai nấy đều co ro trong áo bông áo kép, đầu đội
mũ lông hoặc nón rộng vành. Mặc nhiên là chẳng ai muốn ra đường trừ phi có
việc cần.
Vậy mà cạnh chiếc cổng đá đồ sộ phía nam Bạch Ngưu trấn có mặt hơn tám người
cứ đứng phơi mình, mắt hướng về phía hướng nam với vẻ đợi chờ, sốt ruột.
Họ gồm bốn nam, bốn nữ tay cầm cờ, lọng, chiêng, khánh, có lẽ đang chờ để tiếp
đón một thượng khách nào đó. Thỉnh thoảng, gió bấc lại thổi tung lá đại kỳ nền
vàng ủ rũ, ẩm ướt, để lộ ba chữ màu đen: “Hoàng Phong bang”. Y phục của tám
người ấy cũng có màu vàng sậm, thắt lưng đen.
Trong đám người cao niên nhất là một lão nhân tuổi quá sáu mươi, râu ba chỏm
điểm bạc. Ông nhăn mặt cằn nhằn :
Bỗng đôi mắt diều hâu của lão sáng lên khi phát hiện bóng dáng một kỵ sĩ đang
đi đến. Lão hồi hộp nói với bảy người kia :
Kỵ sĩ áo xanh đang gột tuyết ấy đã đến nơi. Gã ta không mặc áo cừu nên ai cũng
thấy rõ bộ đạo bào thùng thình thêu thùa hình Bát Quái.
Lão nhân râu ba chòm cau mày lẩm bẩm :
Lão tự an ủi mình như thế rồi bước ra chặn đầu ngựa của lữ khách, cung kính
vòng tay thi lễ :
Người bị hỏi chính là chàng trai xui xẻo Quách Tử Khuê của chúng ta. Tử Khuê
ngỡ ngàng chắp một tay lên ngực, cúi đầu đáp lễ và đáp :
Lòng chàng rất ngạc nhiên, chẳng hiểu vì sao đối phương lại biết việc ấy.
Trình Kiếm Các mừng rỡ hỏi thêm một cách xã giao :
Câu này cũng giống như cái cách mà người ta hỏi thăm sức khỏe phụ mẫu của nhau
vậy.
Sau khi được Tử Khuê cho biết đương kim Minh chủ Âu Dương Mẫn là lão ác ma
Huyết Mai hội chủ năm xưa. Hội đồng Võ lâm vô cùng lo lắng. Họ khẩn khoản mời
Cửu Hoa Thánh Y đứng ra chủ trì đại cuộc, tìm cách tiêu diệt đại họa cho võ
lâm. Cổ Sĩ Hoàng là người tài trí, đa mưu túc kế lại giỏi y thuật, quả xứng là
lãnh tụ của phe Bạch đạo trong sự nghiệp giáng ma.
Cửu Hoa chân nhân đã nhận lời nên Tử Khuê cũng được xem trọng vì là sư điệt.
Phần Trương Thiên Sư thì càng yêu mến Tử Khuê khi biết chàng là đệ tử duy nhất
của Vu Mộc chân nhân. Trương Thiên Sư đặc biệt kính mến Chân nhân, xem ông là
bậc Địa Tiên.
Thấu hiểu hoàn cảnh khó khăn nguy hiểm hiện nay của Tử Khuê, Trương giáo chủ
đã hăng hái giúp đỡ bằng cách ban cho chàng một tờ “Đạo điệp”. Từ nay Tử Khuê
sẽ mang thân phận đệ tử Thiên Sư giáo, đánh lạc hướng kẻ thù.
Vì vậy, giờ đây chàng mặc áo đạo bào thiêu hình Bát Quái và phải ngượng ngùng
đáp Trình Kiếm Các như sau :
Cho rằng đã đón đúng người, Trình lão hân hoan ra hiệu cho thủ hạ. Thế là ban
âm bốn nữ ấy vội khua chiêng gõ khánh ỏm tỏi và mang lọng đến che đầu cho
khách.
Phần Trình phó bang chủ thì nắm lấy dây ràng mõm ngựa mà dắt vào trấn. Tử Khuê
như người rơi từ cung trăng xuống. Chẳng biết phải phản ứng thế nào, đành bấm
bụng để mặc bọn Hoàng Phong bang thực hiện nghi lễ đón khách.
Bách tính ở hai bên đường nghe tiếng chuông khánh vang rần, biết ngay rằng Hầu
phủ đã mời được đại pháp sư đến. Họ ùa ra xem, đứng chật cả vệ đường kính cản
vái dài, dù lòng thì tự hỏi liệu cái gã đạo sĩ mặt búng ra sữa kia có bỏ của
chạy lấy người như những pháp sư khác hay không?
Bang chủ Hoàng Phong bang tức Nữ Hầu tước Trình Thiên Kim đã bị qủy ám ba
tháng nay. Thầy thuốc lắc đầu, còn các hòa thượng, đạo sĩ quanh vùng thì tuyên
bố bỏ nghề tróc quả.
Người trong Bạch Ngưu trấn vẫn lén gọi Trình Thiên Kim là Trình Giảo Kim.
Chẳng phải vì nàng ta có râu hoặc sử dụng búa làm vũ khí, mà vì Nữ Hầu tước ấy
tính nóng như lửa. Và khi nàng đã nổi nóng thì còn dữ dằn hơn cả Thiên Lôi,
toàn trấn phải đóng chặt cửa nếu không muốn bị mang hoạ. Tuy nhiên, lúc bình
thường, Thiên Kim lại cực kỳ nhân hậu, rộng rãi và dễ thương.
Do tính nết như thế nên đến tuổi hai mươi ba mà Trình tiểu thư vẫn chưa chồng.
Khi nàng lâm bênh, bị nhốt chặt trong trang, dân trong trấn mới biết họ đều
yêu mến nàng. Ngay cả những kẻ từng là nạn nhân cũng vậy. Thiên Kim luôn bồi
thường cho khổ chủ với giá gấp ba. Bởi vậy, ai cũng mong cho nàng sớm lành
bệnh.
Nhắc lại, Tử Khuê ngồi ngây người như tượng gỗ trên lưng ngựa, đỏ mặt, tía tai
vì ánh mắt tò mò hoặc giễu cợi của dân chúng. Chàng tự nguyền rủa thầm cái số
mạng đen đủi của mình và thở dài phó mặc.
Lát sau, đoàn người đã về đến phủ Hầu tước, ở giữa trấn cơ ngơi này rất rộng
lớn, đầy nét cổ kính nhưng không điêu tàn vì được tôn tạo mỗi năm, dù đã hơn
trăm tuổi.
Sân trước của Hầu phủ rộng thênh thang và sâu thăm thẳm, khiến khách phải mỏi
chân mới vào đến tòa khách sảnh.
Hầu tước lão phu nhân, mẹ của Trình Thiên Kim ra tận cửa đại sảnh để đón
khách. Ánh mắt bà cũng lộ vẻ thất vọng khi thấy vị pháp sư này còn quá trẻ.
Sauk hi chủ khách đã an tọa bên bàn bát tiên, lão thái lập tực trình bày việc
ái nữ bị quỷ ám nên bà mới cho người mang thư và lễ vật đến Long Hổ sơn, nhờ
Trương Thiên Sư giúp đỡ cứu con gái bà.
Nghe xong, Vu Diệp tá hỏa tam tinh, không ngờ lại rơi vào cảnh ngộ éo le này.
Vu Mộc chân nhân sư phụ chàng không hề dạy học trò những phép yếm ma trừ qủy,
hoặc nghi thức cúng bái nhưỡng tai, kỳ phúc. Lãnh vực này vốn là của Thiên Sư
giáo.
Nay Tử Khuê đã nhận mình là đệ tử của Thiên Sư giáo thì chẳng thể bảo rằng
không biết trấn yêu, hàng quỷ. Hơn nữa ánh mắt thiết tha cầu khẩn vì những
giọt lệ trên gương mặt nhăn nheo của Trình lão thái đã khiến chàng không thể
thoái than.
Tử Khuê ngồi chết lặng, miên man suy nghĩ cách giải quyết ổn thoả, thì một kỷ
niệm xưa hiện về. Năm ấy chàng được mười lăm tuổi, Vu Mộc chân nhân nhận được
thư của bằng hữu liền khăn gói đi thăm, dặn dò học trò ở nhà không được biếng
nhác luyện võ. Chàng chẳng thể sang ngủ chung với tỳ nữ Tiểu Loan nên đành
phải ở một mình trong đạo am. Chàng sợ ma và đã ngượng ngùng thú nhận với ân
sư. Chân nhân phì cười và nghiêm nghị bảo :
“Ngươi vốn là Bạch Hổ Đế Quân giáng phàm, khi gặp yêu ma quỷ quái thì chỉ cần
trợn mặt nạt lớn một tiếng là xong, sao lại phải sợ”. Nhờ câu nói ấy mà Tử
Khuê không còn sợ ma nữa.
Giờ đậy, khi nhớ lại chuyện xưa, chàng bỗng muốn thử một phen, xem lời sư phụ
có đúng hay không. Chàng sẽ tận lực và nếu có thất bại thì chủ nhà cũng chẳng
thể trách được.
Nghĩ thế nên Tử Khuê bình tâm lại, nói với lão Hầu Tước phu nhân :
Trình lão thái sùi sụt kể :
Tử Khuê cau mày bảo :
Phó bang chủ Hoàng Phong bang, Trình Kiếm Các nhăn nhó đỡ lời chị dâu :
Tử Khuê đã phóng lao thì phải theo lao, chẳng thèm lo lắng nữa. Chàng nghe
bụng sôi sùng sục liền ngượng ngùng nói :
Trình lão thái vui vẻ đáp :
Nhưng xin hỏi vật cúng tế gồm những gì để lão thân chuẩn bị.
Tử Khuê sượng sùng đáp :
Phương pháp này khác xa những người đến trước khiến Hầu tước lão phu nhân bội
phần tin tưởng hân hoan đưa bậc Chân nhân xuống phòng ăn.
Đầu canh hai đêm ấy, Tử Khuê và phe chủ nhà có mặt ở vườn hoa lớn, phía sau
Hầu phủ. Cuối vườn hoa là một tòa nhà gạch, được vây quanh bởi bức tường thấp
ngay ngực, biệt lập với chung quanh. Đây là nơi Trình Thiên Kim luyện võ và
hội họp với những đầu lĩnh Hoàng Phong bang, có tên là Tụ Nghĩa sảnh.
Tổng đàn của bang hội nhỏ bé này nằm trên mảnh đất mé hữu Hầu phủ và thông với
nhau ở phần đuôi.
Trước giờ bị đuổi ra, tỳ nữ Hầu phủ đã thắp sáng mười ngọn đèn tọa đăng để
người ngoài có thể quan sát những diễn biến trong Tụ Nghĩa sảnh.
Suốt ba tháng nay, đêm nào bọn tỳ nữ cũng phải thay phiên, túc trực bên ngoài
Tụ Nghĩa sảnh nhìn qua cửa chính và những ô cửa sổ, cánh lợp pha lê, để theo
dõi động tĩnh của Trình Thiên Kim. Trình lão thái cũng thường xuyên chống gậy
mà đến đây khóc lên trước cảnh ái nữ múa quyến như điên dại, y phục ướt đẫm mồ
hôi, tóc tai rũ rượi.
Tối nay, bà hăng hái dẫn vị pháp sư trẻ tuổi tiến vào Tụ Nghĩa sảnh.
Cạnh bà là Trình Kiếm Các, em họ thúc bá của lão Hầu tước. Và theo sau bà là
hai chục tỳ nữ cầm đuốc, cũng là đệ tử Hoàng Phong bang.
Nhưng khi đoàn người đi được nửa sân gạch, còn cách thềm hiên Tụ Nghĩa sảnh
hai ba trượng thì từ trong cửa sảnh rộng mở kia có một luồng gió mạnh như bão
tố thổi ra. Đạo cuồng phong này lạnh thấu xương, cuốn những bông tuyết đang
rơi, thổi tắt hai chục cây đuốc trong tay bọn tỳ nữ và mạnh đến mức đẩy Trình
lão thái ngã ngửa. Trình Kiếm Các kinh hãi đỡ chị dâu và quát mọi người lùi
lại.
Nhưng gã đạo sĩ trẻ Vu Diệp chân nhân vẫn thản nhiên dấn bược, cứ như chẩng hề
có luồng gió nào cả. Điều đáng ngạc nhiên là bộ đạo bào của Vu Diệp cũng không
lay động nghĩa là ngọn quỷ phong kia không chạm được vào người chàng ta.
Trình lão vô cùng khâm phục, chỉ cho chị dâu xem và bảo :
Hầu tước phu nhân cũng khấp khởi mừng, song vẫn chưa hoàn hồn nên chỉ gật đầu.
Lúc này, Tử Khuê đã bước qua cửa sảnh. Chàng đang ngơ ngác nhìn quanh tòa nhà
rộng rãi và trống trơn để tìm người bệnh thì nghe tiếng khan khan ngạo nghễ :
Nếu ngươi giỏi quyền thuật hơn thì Lỗ mỗ mới cúi đầu tuân phục.
Câu nói vừa dứt thì từ trên xà ngang Tụ Nghĩa sảnh có người nhảy xuống, đứng
đối diện Tử Khuê, cách chừng hơn trượng. Đấy là một nữ lang võ phục xanh, tóc
búi theo kiểu nam nhân, mặt trái xoan với ngũ quan thanh tú, da dẻ trắng xanh
vì đã gần trăm ngày không ra khỏi cửa.
Ánh mắt này tỏ sáng rực rỡ uy nghiêm, hai chân đứng dang rộng như đàn ông
chẳng kín đáo chút nào cả. Tức cười thay, nàng ta còn đưa tay vuốt râu cằm dù
chẳng có cọng nào.
Nghe đối phương đòi tỷ quyền, Tử Khuê cũng vững bụng. Chàng phì cười chế giễu
:
Trình Thiên Kim bực bội chửi đổng :
Tử Khuê cố nén cười, tủm tỉm bảo :
Vô Địch Thần quyền lắc đầu đắc ý đáp :
Lúc này bọn Trình lão thái cũng tỳ nữ vẫn còn đứng ngoài sàn gạch, không sao
vượt qua được luồng quái phong mãnh liệt. Hơn nữa, trên dãy hành lang xung
quanh Tụ Nghĩa sảnh có những bóng trắng lượn lờ khiến đám nữ nhân sợ đến nhũn
cả người. Ngay một bậc cao thủ lão thành như Trình Kiếm Các rợn tóc gáy, chẳng
dám tiến lên.
Ở vị trí ngoài ba trượng, họ không hề bị quái phong chạm đến và có thể nhìn
nghe thấy những gì xảy ra trong sảnh. Do đó, họ đã hiểu ra được nguồn căn bệnh
của Trình tiểu thư. Trình lão thái nghe hồn ma đòi đánh nhau với Vu Diệp chân
nhân thì hoảng hốt thét lên :
Trình Kiếm Các cười khổ, bảo chị dâu :
Trình lão thái bối rối đáp :
Trình Kiếm Các gật đầu, vận công quát lớn :
Tử Khuê nghe xong câu ấy liền bỏ ý định tỷ võ với Lỗ phán quan. Song trước khi
rút lui, Tử Khuê cố gỡ gạc chút thể diện, đồng thời kiểm nghiệm xem mình có
đúng là thần tiên giáng phàm hay chăng? Chàng trợn mắt chỉ vào Trình Thiên Kim
mà nạt lớn :
Nào ngờ đối phương chẳng chút sợ hãi ôm bụng cười sặc sụa khiến Tử Khuê xấu
hổ, ngượng đến chin cả người. Cười xong, ả giai nhân bị quỷ ám kia khạc xuống
nền gạch một bãi đờm to tướng vô cùng gớm giếc, rội ngạo mạn nói :
Tử Khuê không ngờ mình bị hố to, mới khai trương nghề thầy pháp mà đụng ngay
phải quỷ dữ. Chàng nhủ thầm rằng mạng mình vẫn còn đen như lông chó mực, làm
gì cũng chẳng thành.
Nhưng Tử Khuê chưa kịp hàt bài “tẩu mã” thì đối phương đã như cơn lốc ập đến
tấn công. Trong lúc bất ngờ, Tử Khuê đã phản ứng bằng cách đảo bộ tránh né.
Thế là Lỗ phán quan chiếm ngay vị trí cửa ra rồi từ đấy đánh ngược vào.
Tử Khuê lúng túng thi triển “Thao Quang thân pháp” mà tránh đòn. Lỗ phán quan
đánh hụt tám chín chiêu giận giữ gầm vang như sấm và hăm dọa :
Lão oán ghét kẻ đã ngày ngày thải cái thứ nước đủ mùi vị và màu sắc của đàn bà
vào hài cốt mình nên luôn gọi Nữ Hầu tước là Trình Giảo Kim, một lão ngốc thời
Đường.
Tử Khuê nghe vậy nên không dám bỏ chạy nữa, đình bộ tiếp chiêu.
Chàng cũng đã nghĩ ra cách dung phép “Cương ty phất huyệt” để đối phó mà không
mạo phạm đến thể xác Thiên Kim.
Lỗ phán quan cao hứng đem sở học lúc còn sống ra thi thố. Quyền pháp của lão
cực kỳ ảo diệu, biến hóa khôn lường, đáng gọi là tuyệt học hãn thế.
Lão ngứa nghề đòi tỷ võ chứ chẳng phải là muốn giết người nên ra sức không
nhiều. Sau vài chục chiêu, thấy đối phương chẳng hề nao núng, lão tăng dần lực
đạo và xuất những chiêu ác liệt hơn, quyền phong xé gió vù vù, song quyền song
cước nối nhau ra đòn liên miên bất tuyệt. Tiếng da thịt, xương cốt chạm nhau
không vang rền hay chát chúa như sắt thép mà chỉ “lịch bịch, bì bạch” hòa với
tiếng y phục phất gió phần phật, song cũng tạo cho người xem cảm giác hồi hộp
và đầy kích thích.
Trình Kiếm Các, ở bên ngoài tròn mắt theo dõi cuộc đấu, người nhấp nha nhấp
nhổm, tay chân ngọ nguậy liên tục, lão là tay quyền thủ lừng danh nên đủ bản
lĩnh để thưởng thức hết những cái hay, cái lạ của cặp đấu sĩ kia.
Trình lão luôn miệng trầm trồ tán dương Vu Diệp chân nhân. Chàng đạo sĩ trẻ
măng ấy đang thi triển một loại quyền pháp lạ mắt nhưng bội phần kỳ ảo, song
thủ lúc xòe lúc cụp, lúc giương thành trảo, ung dung chống đỡ những đòn sấm
sét, hiểm hóc của đối phương, lúc chàng ta phòng thủ thì vững như núi Thái,
còn khi công dũng mãnh tựa thần long cho nên dần dần đã chiếm được thượng
phong, đẩy kẻ địch lui dài.
Trình lão ngạc nhiên và khâm phục những Lỗ phán quan thì nổi giận.
Lão không thể chấp nhận việc mình kém tài một gã nhãi ranh tuổi mới đôi mươi.
Chẳng những Vu Diệp giỏi quyền thuật mà công lực cũng thâm hậu hơn tuổi tác,
và lại còn học được yếu quyết “Tụ khí thành ti”, điểm huyệt mà không cần chạm
đến áo đối phương.
Lỗ phán quan ngao ngán nhận ra rằng Vu Diệp càng đánh càng hay, càng thâm nhập
vào tinh tuý của pho quyền. Và lúc này chiêu thức của gã cuồn cuộn, mênh mang
tựa nước biển Đông, ồ ạt dâng tràn, nhấn chìm mọi nỗ lực của lão.
Quả đúng như vậy. “Thao” có nghĩa là nước lớn mênh mông, cuồn cuộn, cho nên
“Thao Quang thần thức” uyên ảo, bão táp phi thường, gồm thâu tinh tuý trăm
nhà, là tâm huyết của một đơì Vu Mộc chân nhân.
Sau hơn bốn trăm chiêu, Lỗ phán quan thức ngộ rằng mình không thể nào hơn được
đối phương và nắm chắc phần thất bại. Lão bất giác sinh lòng thán phục và yêu
mến chàng trẻ tuổi kỳ tài. Nhưng vì tự ái của kẻ gìa nua, lão không cam tâm bỏ
cuộc, tìm cách rút lui trong danh dự.
Bỗng trong đầu lão lóe lên một ý niệm ngộ nghĩnh, liền mỉn cười, nhảy lùi lại
giơ tay xin đình chiến. Và lão thoăn thoắt cởi mau chiếc áo đẫm mồ hôi, miệng
thì phân bua :
Có lẽ bọn tỳ nữ quên mặc yếm cho tiểu thư nên trong áo chẳng còn gì ngoài thịt
da ngà ngọc.
Tử Khuê đỏ mật, líu lưỡi khi nhìn thấy làn da trắng mịn và đôi nhũ phong kiêu
hãnh, mơn mởn tựa quả tuyết lê. Chàng kinh hãi lắp bắp :
Lỗ phán quan cười kiêu hãnh :
Tử Khuê chưa kịp đối đáp thì đã bị đối phương tấn công quyết liệt. Vì bản năng
sinh tồn buộc chàng phải chống đỡ những đòn hiểm độc ấy. Tất nhiên chàng chẳng
thể nhắm mắt mà đánh nhau nên càng bối rối trước cặp ngọc phong mỹ miều, khêu
gợi đang nhảy múa trước mặt. Họ Lỗ lại còn cố tình đưa ngực ra đón những đòn
chân của chàng khiến Tử Khuê phải rút về ngay.
Tâm loạn thì chân khí không đủ, chiêu thức lệch lạc nên Tử Khuê thất thế, liên
tiếp bị trúng đòn. Tuy không thọ thương, song chàng cũng nghe đau thấu trời.
Ngoài kia, Trình lão thái vò đầu bứt tóc kêu trời khi thấy ái nữ lõa thể mà
đánh nhau với nam nhân. Trình Kiếm Các thì đã sớm bỏ chạy, không tiện ở lại.
Lễ giáo Trung Hoa rất nghiêm khắc, ngay cả cha ruột cũng không được phép nhìn
thấy thân thể con gái mình.
Trình lão thái hậm hực chửi vang :
Bên trong, Lỗ phán quan nghe vậy liền nạt lớn :
Trình lão thái sợ nhũn cả người, chẳng dám chửi thêm. Nhưng khi đứng nhìn Vu
Diệp chân nhân vừa đánh vừa lùi, trúng đòn liên tục, bà bèn động lòng trắc ẩn
và cũng sợ chàng chết thì nguy to. Vả lại nếu Vu Diệp thua thì Thiên nhi sẽ
điên cuồng thêm chín tháng.
Bởi thế Trình lão thái nghĩ nhanh và cao giọng nói :
Tử Khuê nghe xong vô cùng kinh hãi, vội trấn tĩnh lại và phản công.
Chàng dồn hết nội công vào những chiêu thần diệu nhất, song thủ hóa thành trăm
ảnh chưởng chập chờn, chỉ kình vun vút. Chỉ sau ba chiêu, chàng đã quất một
cước vào gò mông tròn trịa, nẩy nở của đối phương, khiến Lỗ phán quan la oai
oái.
Giờ đây, người phải thoái hậu tránh né lại là họ Lỗ. Thêm vài chục chiêu nữa,
Tủ Khuê chợt phát hiện cơ hội hạ thủ vì đối phương đã lộ sơ hở rất lớn bên
sườn trái. Chàng liền ập vào xuất chiêu “Hoàng Thủy Thao Thao” (nước Hoàng Hà
cuồn cuộn), khóa chặt đường quyền của đối phườn rồi vươn tay điểm vào huyệt
Đại Bao bên trái.
Nào ngờ, đúng lúc ấy vị thần xui xẻo ra tay hành động. Mũi giầy phải của Tử
Khuê đặt đúng vào bãi đờm nhơn nhớt mà Trình Thiêm Kim tức Lỗ phán quan đã
khạc ra lúc trước. Tử Khuê trượt chân chới với, không những hụt mục tiêu mà
còn bị đối phương điểm vào huyệt Bách Hội trên đầu.
Tử Khuê mê man, ngã sấp mặt xuống, may mà được Lỗ phán quan thò tay chụp búi
tóc giữ lại. Lão ta khoái trá cười vang và đưa cánh tay còn lại khua một vòng.
Trong sảnh bỗng nổi lên trận cuồng phong làm cho những ngọn đèn tắt lịm.
Trình lão thái và bọn tỳ nữ kinh hoàng thét lên song đành thúc thủ, vì những
bóng ma ghê rợn vẫn còn lượn quanh dãy hành lang.
Phá Sơn Quyền Trình Kiếm Các nghe tiếng cười, tiếng thét, liền từ vườn hoa
chạy vào. Thấy Tụ Nghĩa sảnh tối đen như mực, lão hiểu rằng Vu Diệp chân nhân
đã thất bại. Lão thở dài, an ủi chị dâu :
Nhưng theo tiểu đệ suy đoán thì Lỗ phán quan sẽ không dám giết oan người vô
tội.
Trình lão thái hơi yên tâm, thiểu não theo bọn tỳ nữ về hậu viện. Bà cũng
chẳng còn sức để đứng đây chịu đựng thêm cái lạnh cắt da của đêm đông. Nãy
giờ, du được trùm kín trong áo choàng lông thượng hạng, đầu che ô mà bà cũng
hắt hơi hàng chục cái.
Phá Sơn Quyền ở lại, lủi thủi đi đến tòa tiểu đình cạnh cổng ngồi tránh tuyết.
Lão khép chặt áo lông, miên man suy nghĩ tìm cách biện bạch với Thiên Sư giáo
nếu chẳng may Vu Diệp chân nhân táng mạng.
Lão không biết rằng chàng đạo sĩ trẻ kia chẳng hề gặp nguy hiểm lại còn đang
lạc bước vu sơn.
Tử Khuê nằm trên chiếc giường bát bửu trải nêm rất cao, đặt ở góc Tây Nam Tụ
Nghĩa sảnh, cạnh chàng là Nữ Hầu tước Trình Thiên Kim.
Tử Khuê mơ thấy mình cưới vợ và tân nương lại chính là nữ Hầu tước họ Trình.
Chàng ngây ngất trước nhan sắc kiều diễm của Thiên Kim, nghe lòng yêu thương
dào dạt, nàng cũng nhìn chàng bằng ánh mắt đắm say, tình tứ.
Sau vài cái hôn nồng thắm, họ bạo dạn vuốt ve nhau và rồi cởi từng mảnh xiêm y
rơi xuống sàn nhà. Tử Khuê hôn hít mãi xác thân ngà ngọc của vợ yêu.
Tất cả những nét quyến rũ ấy đều lạ lùng với chàng, chỉ trừ đôi gò bồng đảo
kia trông có vẻ quen quen.
Đôi mắt nhung huyền của Thiên Kim rực rỡ đam mê, mời gọi nàng run rẩy mơn trớn
những bắp thịt rắn chắc trên người Tử Khuê với niềm háo hức ngút trời.
Cửa đào nguyên rộng mở rước khách phong lưu lạc bước. Ái ân là hành vi bản
năng không cần phải học, hai kẻ thanh xuân dẫn nhau vào hoan lạc, mỗi bước
thêm thành thục. Bước đầu hơi vội vã song những bước sau chậm rãi, ung dung.
Thiên Kim không hề gặp trở ngại trong việc cảm thụ khoái lạc. Sau ba tháng bị
Lỗ phán quan mượn xác luyện võ, dẫu nàng có là trinh nữ thì chút tiết hạnh
mỏng manh ấy cũng đã toang hoang.
Trong phép đánh trường quyền, chân của người võ sĩ vươn rất dài, khẩu độ giữa
hai chân nhiều lúc gần như đường thẳng. Dĩ nhiên, về mặt lễ giáo thì tư thế ấy
quả là lộ liễu lẳng lơ, nên nữ nhân không được phép học. Các phái thường dạy
cho nữ đệ tử loại cước pháp kín đáo hơn, ra đòn ngắn và thấp chủ yếu tấn công
hạ bàn đối phương.
Nay Lỗ phán quan chơi ác, sử dụng cơ thể Thiên Kim mà đánh những chiêu cước
của nam nhân khiến nhụy hoa tơi tả.
Song nàng chẳng hề biết mà oán trách lão ta, cứ hân hoan cùng Tử Khuê rạo
chung một giấc vu sơn. Nàng nhận được quá nhiều hạnh phúc nên tri ân và yêu
thương mãnh liệt người chồng mới cưới. Thiên Kim chợt tiếc nuối rằng vì sao
chẳng lấy chồng từ thuở tuổi mười lăm, để phải chịu cảnh phòng không chiếc
bóng đến tận tuổi này.
Đêm đông dài dằng dặc, ngay lũ gà cũng ngủ vùi, chẳng thèm gáy sớm.
Cho nên đến gần giữa canh năm thì mới có một con lên tiếng.
Phá Sơn Quyền đang ngủ gật trên ghế đá trong tôn tiểu đình liền giật mình thức
giấc. Lão dụi mắt ngồi dậy, bốc nắm tuyết trên thành lan can mà rửa mặt cho
tỉnh táo rồi bước về phía Tụ Nghĩa sảnh.
Thấy đám hồn ma đã biến mất, lão định bước vào trong song lại nhớ đến cảnh
thoát y đêm qua nên chẳng dám đành đứng ngoài hiên chờ đợi.
Lát sau, Trình lão thái được hai ả tỳ nữ hộ tống đến nơi. Bà vội vã hỏi :
Trình Kiếm Các cười khổ :
Trình lão thái hiểu ý gật đầu rồi cao giọng gọi :
Bà chỉ gọi theo bản năng chứ thường thì ban ngày Thiên Kim câm như hến, hết
ngủ rồi lại ăn chứ không nói năng gì cả. Nào ngờ lần này lão thái được nghe
lại giọng nói trong trẻo, thanh tao của ái nữ :
Cả nhà mừng rỡ tiến vào, nhìn thấy Thiên Kim từ phòng vệ sinh phía sau sảnh
bước ra, sắc mặt nàng tươi tỉnh, ảnh mắt tinh anh và môi thì nở hoa.
Thiên Kim nghiêng mình chào Trình Kiếm Các rất lễ độ, rồi nắm tay mẹ và nũng
nịu :
Trình lão thái ngơ nhác nhìn ái nữ, chẳng hiểu đây có phải là con mình hay
không? Trước đây, Thiên Kim có bao giờ ăn nói dịu dàng, mềm mỏng thế này đâu?
Nàng ta đầy nam tính, nói năng ngắn gọn, dứt khoát, thiếu tình cảm.
Dường như Thiên Kim muốn bắt chước tác phong của nam nhân vậy.
Phá Sơn Quyền đang nẫu ruột vì việc khác nên chẳng thèm lưu tâm đến sự bình
phục của cháu gái. Lão cau mày hỏi ngay :
Thiên Kim ngơ ngẩn đáp :
Phá Sơn Quyền chợt điếng người, phất tay bảo một tỳ nữ.
Ả tỳ nữ nhận lệnh đi ngay. Và Trình Kiếm Các cũng rảo bước đến khi phía sau Tụ
Nghĩa sảnh, lão tìm cả trong phòng tắm, nhà bếp, nhà xí, vườn hoa song chẳng
thấy Vu Diệp đâu cả.
Ngoài này, Trình lão thái kể lại cho con gái nghe việc nàng bị quỷ ám ra sao
và cuộc chiến của Vu Diệp chân nhân đêm qua. Bà sợ Thiên Kim hổ thẹn nên không
nhắc đến việc nàng thoát y.
Phá Sơn Quyền lên đến thì câu chuyện cũng kể xong và ả tỳ nữ Tiểu Hồng cũng
trở lại. Ả hớn hở báo cáo :
Trình Kiếm Các thờ phào nhẹ nhõm, nói với Trình lão thái :
Hầu tước lão phu nhân vui vẻ tán thành bảo con gái :
Thiên Kim nhu thuận gật đầu, đi theo từ mẫu. Họ lên đến phòng dành cho khách
thì Tử Khuê đã gói ghém xong hành trang.
Cửa phòng hơi hẹp nên Tử Khuê chỉ thấy hai người đứng trước là Trình lão thái
và Phá Sơn Quyền. Chàng sượng sung nghiêng mình nói :
Bần đạo bất tài, không trị nổi con quỷ dữ kia, lòng vô cùng hổ thẹn. Bần đạo
đã viết sẵn một bức thư kể rõ nội tình, lão thí chủ cho người mang đến Long Hổ
sơn tất Giáo chủ bổn giáo sẽ đích thân đến đây. Giờ cho phép bần đạo xin xáo
từ.
Trình lão thái ngạc nhiên hỏi lại :
Và bà quay lại kéo tay ái nữ, bước vào trong phòng.
Thiên Kim thẹn thùng quỳ xuống thi lễ :
Tử Khuê nhớ đến tấm than mỹ miều của nàng đêm qua mà đỏ mặt, ấp úng đáp :
Trình Thiên Kim đứng lên nhìn chàng với ánh mắt biế ơn và ngỏ lời an ủi :
Trình lão thái hớn hở đỡ lời ái nữ :
Tử Khuê lung túng đáp :
Sau một hồi bị níu kéo, Tử Khuê đành phải nhận trăm lượng vàng và bộ áo mũ
lông thượng hạng rồi ra đi, lòng chàng rất thanh thản vì đã quên sạch giấc vu
sơn đêm qua. Trình Thiên Kim cũng thế.
Nhưng trong mấy ngày sau đó, Thiên Kim phát hiện bọn nữ đệ tử Hoàng Phong bang
thường nhìn minh bằng ánh mắt bí ẩn, pha chút giễu cợt. Nàng lien gọi ả tỳ nữ
thân tín Tiểu Huệ đến gạn hỏi thì được nghe thêm việc mình cởi áo mà giao đấu
với Vu Diệp chân nhân.
Nghe xong, nàng tái mặt vì hổ thẹn song không phát tác, đập phá lung tung như
trước nữa. Nàng thay đổi nhiều đến mức khó ngờ.
Thiên Kìm ngồi thừ người suy nghĩ, lòng vô cùng hoang mang. Sau khi Vu Diệp
chân nhân bị hồn ma Lỗ phán quan đánh ngã lúc gần cuối canh hai, việc gì đã
xảy ra trong bóng tối? Và tại sao giờ đây hàng đêm nàng thao thức với niềm rạo
rực của xác thân, mơ đến gương mặt dễ mến của chàng đạo sĩ trẻ kia. Song
phương hội ngộ chưa đầy một khắc mà sao nàng cứ nhớ nhung da diết người ta như
thế?
Tối mười hai, Thiên Kim lần đến khuê phòng của mẫu thân, ngượng ngùng thố lộ
tâm sự, kể hết những cảm giác lạ lung mà mình đang có.
Hầu tước lão phu nhân rụng rời chân tay thảng thối nói :
Thiên Kim vội đưa tay bịt miệng lão thái và diụ dàng phân giải :
Chàng nhìn hài nhi bằng ánh mắt thẹn thùng song chẳng có chút áy náy tội lỗi.
Trình lão thái gật đầu công nhận ái nữ có lý và ngậm ngùi hỏi :
Thiên Kim đáp bằng giọng buồn bã song đầy kiên quyết :
Té ra Trình Thiên Kim không ngốc như Trình Giảo Kim, đã nhận xét rất đúng đắn
về Tử Khuê. Trên đường thiên lý, chàng đang khổ sở bởi sự trỗi dậy của dục
tính và nỗi nhớ thuơng nữ Hầu tước họ Trình.
Tử Khuê cố đè nén bằng cách luyện công tọa thiền song không sao xóa mờ được
hình bóng quyến rũ của hai quả tuyết lê mơn mởn. Chàng còn mơ hồ mường tượng
rằng mình đã từng ôm ấp thân thể ngọc ngà của Thiên Kim.
Song khác với Thiên Kim, Tử Khuê sợ hãi điều ấy, cho rằng Lỗ phán quan đã ám
quẻ mình. Chàng thường mơ đến một tình yêu thuần khiết, nhẽ nhàng, e ấp nên bị
choáng ngợp bởi sự lộng lẫy nồng nàn của dục tình và vẻ đẹp xác thân.
Tử Khuê cảm thấy tội lỗi bèn hình dung đến gương mặt thánh thiện của người nữ
đệ tử Võ Đương hôm trước. Lúc theo sư thúc lên núi, chàng có gặp nàng vài lần
nữa nhưng không tiện hỏi han. Nàng ta cũng chỉ mỉm cười với chàng rồi quay
bước.
Con tim Tử Khuê đã rộn rang xao xuyến biết bao bởi những rung động đầu đời
ngây thơ ấy.