Buổi tiệc chính thức bắt đầu khi sắc trời chuyển sang tối hẳn. Mỗi bữa tiệc
cuối năm ở Văn Đàn đều rất quan trọng, nó không chỉ là cột mốc đánh dấu một
năm kết thúc, mà còn là nơi để cho tầng lớp tri thức có thể giao lưu với nhau,
hơn nữa bữa tiệc cuối năm này cũng là nơi để thông báo xem trên bảng vàng có
khắc thêm cái tên nào mới không.
Mấy năm trở lại đây, bảng vàng chưa có thêm cái tên nào mới cả, nhưng điều đó
không có nghĩa là không khí trở nên nhàm chán. Ngược lại, người ta cứ trông
chờ vào cái tên được đưa lên bảng vàng, hoặc nếu không được thì có thể khoe
tác phẩm của mình cho người xem.
Dù năm nào cũng có người thi đỗ và ra làm quan, tuy nhiên khoảng năm mươi đổ
lại đây thì việc làm quan không còn quá nhiều ý nghĩa, không có ai tự nhận có
thể dùng một thân kiến thức của mình mà đi bình ổn đất nước, so với giặc ngoại
bang đám quan văn bọn họ chính là đám người mềm yếu, muốn giết lúc nào thì
giết, mà ngoài những vị đại thần ra thì đám quan văn đến từ mấy kỳ thi hằng
năm không có quá nhiều tác dụng.
Hầu hết người chọn cách ở yên ăn bổng lộc có triều đình, an an nhàn nhàn mà
giữ một chức quan nho nhỏ, sau khi tích cóp đủ tài sản sẽ lui quan về ở ẩn,
vừa tránh xa thị phi, vừa dư dả về già. Tất nhiên, không phải ai cũng như vậy,
không thiếu người chọn cách sáng tác thơ văn để lấy danh tiếng, thầm mong sẽ
được các nhân vật lớn coi trọng mà thu vào dưới trướng, mà buổi tiệc ở Văn Đàn
này chính là nơi thích hợp nhất để thể hiện khả năng của mình.
“Không biết năm nay, có ai được xướng tên không nhỉ?” Đám văn sĩ thấp giọng
nghị luận, lúc này ở trong Thư Viện đã dựng sẵn mấy chục các bàn gỗ, rồi có
thêm mấy mươi cái bàn con có phủ lụa đỏ, đám văn sĩ cũng tự kết nhóm với nhau,
kẻ nhanh tay thì vào trong bàn gỗ ngồi, kẻ chậm chân chỉ có thể ngồi dưới bàn
nhỏ.
Sức chứa của Thư Viện cũng không nhỏ tí nào, lúc này toàn bộ sân vườn của Thư
Viện được bày ra thành một bữa tiệc ngoài trời. Đèn lồng sớm đã thắp sáng nơi
này bằng đủ thứ màu sắc rực rỡ, phía trên là một sân khấu được dựng bằng gỗ
quý có người đánh canh gác, mà gần đó cũng có vài chiếc ghế khách quý đối diện
sân khấu, những chiếc ghế đó đều được che lọng đỏ và có người đứng hầu.
Tiêu Thông và Vương Ngọc đang ngồi ở đây, ngồi gần họ hầu hết là những lão già
đã có tuổi, ai cũng râu tóc bạc phơ, tuy không ai nói chuyện nhưng vẫn toả ra
thần thái ưu nhã, ai tinh mắt đều nhận ra đó chính là những danh nhân có danh
tiếng trong nước.
Mà càng làm người ta chú ý hơn là một thiếu niên lạ hoắc đang cúi đầu lên bàn
không biết đang ngủ hay thức.
“Năm nay, ngươi nghĩ có ai lên được bảng vàng không” Vương Ngọc đối với bữa
tiệc năm nay có chút chờ mong, so về quy mô năm nay lớn hơn mọi năm nhiều, hơn
nữa một năm nay xuất hiện vài thiên tài thơ văn, hầu hết đều đang dự buổi tiệc
này.
“Không có ai đâu, nếu như không có biến cố gì xảy ra thì, trong vòng năm năm
nữa mới có” Tiêu Thông chán nản nói, hắn đang thầm đếm lại số bạc kiếm được
ban chiều, tuy rằng không quá nhiều nhưng không sao, tiền vẫn là tiền.
Vương Ngọc bất đắc dĩ cười trừ, với lời nói của Tiêu Thông nàng tất nhiên cũng
không hoàn toàn tin tưởng. “Họ Du vừa xuất đạo năm ngoái, bây giờ đã nổi danh
Nam Bắc, thơ văn phong lưu, tuy viết về cảnh ăn chơi đàng điếm nhưng lại cực
kỳ nho nhã, nghe tục mà lại không thể nào trách được, kể cả hắn sao?”
“Năm năm nữa, ta nói rồi, bây giờ hắn chưa đủ chín chắn, hơn nữa, người trẻ
tuổi thành công quá sớm là tai nạn chứ không phải may mắn” Tiêu Thông nhấp một
chén rượu, lúc này giai nhân đã bắt đầu đem đồ ăn lên, trên sân khấu cũng xuất
hiện một đoàn ca múa từ khu vực cao nguyên, nhìn điệu nhảy uốn éo lắc mông của
họ, Tiêu Thông cảm thấy có chút đã con mắt.
“Thế còn, vị Nhất Niệm Thiền Sư thì sao? Một năm chỉ ra ba bài, nhưng bài nào
cũng là tuyệt phẩm” Vương Ngọc vỗ mạnh vào cái vai của Tiêu Thông, đối với ánh
mắt nhìn loạn của hắn, nàng hoàn toàn không hề hài lòng.
“Thôi, thôi,đừng nói với ta mấy cái thơ ca chán phèo này nữa. Mà dù thơ của vị
thiền sư kia có hay đi nữa thì cũng không được khắc tên lên bảng vàng đâu, cái
này ta cam đoan” Tiêu Thông nháy mắt rất trầm tư, Vương Ngọc nhất thời bị cuốn
vào ánh mắt của Tiêu Thông, nàng tò mò hỏi.
“Tại sao? Có bí ẩn gì trong đây?” Tiêu Thông cười thần bí.
“Vì ta là giám khảo mà, à không, ta đút lót giám khảo rồi, cho nên dù thơ có
hay bằng nào cũng đừng hòng ghi tên vào bảng vàng” Vương Ngọc cũng chỉ lắc
đầu, với cái tên này thì Vương Ngọc cảm thấy không còn gì để nói. Nàng chỉ có
thể ngoảnh đầu sang chỗ khác, không thèm để tâm tới Tiêu Thông nữa.
“Bây giờ, chúng ta xin được ngâm một trăm bài thơ hay nhất trong năm nay, và
người giúp đệm đàn cho chúng ta là Kim Ngư Đệ Nhất Tài Nữ, tiểu thư Vô Ưu” Văn
Nhã chính là người điều hành bữa tiệc năm nay, với vẻ ngoài ưa nhìn cùng giọng
nói ngọt ngào của mình, không khó để Văn Nhã chinh phục đám văn sĩ đang nghêu
ngao ngâm thơ ở dưới.
Tấm màn sân khấu được kéo lên hiện ra thân thể của Vô Ưu. Lúc này Vô Ưu mặc
một bộ váy dài màu đen, khuôn mặt mang theo một nét buồn tự nhiên, cây cổ cầm
đặt trên bàn cũng toát ra một khí tức hoài cổ, khiến cho người ta không kiềm
được mà chú ý tới.
“Ngược lại, nếu Vô Ưu cô nương làm thơ, ta sẽ cho Vô Ưu lên bảng vàng” Tiêu
Thông bĩu môi nói, Vương Ngọc làm thinh, nhưng quả thật thứ khí chất khi chơi
nhạc của Vô Ưu làm cho nàng vô cùng nể phục, không hề giả bộ thanh cao, cũng
không làm ra vẻ khuê các cao sang, nhưng bằng cách nào đó vẫn khiến cho người
ta ảo giác rằng người đang đánh đàn có địa vị cực kỳ cao trong xã hội.
Không gian phút chốc im lặng như tờ, mà âm điệu đầu tiên của dây đàn giống như
một cây kim đang rơi xuống một mặt hồ tĩnh lặng. Trong sát na cây kim đó phá
vỡ bầu không khí yên ả của mặt hồ, mang tới một gợn sóng lan toả khắp nơi.
Vô Ưu hơi nghiêng đầu, sau đó tiếp tục gảy, tuy rằng nàng chỉ đang đàn một bài
cực kỳ phổ thông mà hầu hết ai cũng từng nghe qua, nhưng cách diễn tấu của
nàng thì thật sự rất đặc biệt. Phảng phất giai điệu của toàn bộ bài nhạc đã
được thay đổi, tuy rằng vẫn nghe ra được bản “Mưa Xuân” quen thuộc nhưng lại
chẳng thể lường trước được bài nhạc.
Tiết tấu của bài “Mưa Xuân” được soạn ra với tốc độ chậm nhưng dồn dập, vào
tay Vô Ưu, “Mưa Xuân” lại trở nên mạnh mẽ và có nhịp điệu hơn hẳn. Tiếng đàn
của Vô Ưu như từng cơn mưa rào rào xuống một cách có hệ thống, tuy bất định
nhưng lại cực kỳ bắt tai, bản nhạc này được chính tay Bạch Kỳ sửa lại vào cái
ngày Vô Ưu mời hắn về chơi.
Mà ngay trong đêm mưa đó, nghe chuyện của Cô Dung, càng làm cho Vô Ưu hiểu
thấu phần ý cảnh này hơn. Nguyên bản, mưa xuân trong ý tác giả là cơn mưa nhè
nhẹ, nhưng dây dứt, còn cơn mưa xuân này là một trận mưa mịt mù và dày đặc,
tiếng mưa nện xuống mặt đất cũng đều đặn hơn.
Lúc này mọi người vốn đã bị tiếng đàn của Vô Ưu làm im bặt lại trở nên ồn ào
hơn khi từ bên dưới bước lên một người. Đó là một cô gái trẻ tuổi mặc y phục
trắng, khí chất nhẹ nhàng dễ gần, hoàn toàn trái ngược với Vô Ưu. Cô gái cất
giọng ngâm nhè nhẹ.
“Sáng ra cơn mưa nhỏ
Ướt áo khách lạc đường
Cô em xưa vừa cưới
Lệ rơi đầy trong sân”
Nhất thời, một tiếng vỗ tay vang dội khắp nơi. Hai ý cảnh của hai người kết
hợp với nhau làm cho người ta có cảm giác rất đặc biệt. Vốn bài thơ này là của
một thư sinh vô danh, bài thơ tuy rằng lan truyền nhiều nơi nhưng qua nhiều
tầng phân tích, người ta đều nhất trí cho rằng bài thơ này ý cảnh không quá
sâu, tuy rằng đánh trúng tâm lý của nhiều người, tuy nhiên lại không thể so
với những bài thơ thâm ảo khác.
“Sau khi bỏ công tìm hiểu, chúng ta mới biết bài thơ này không phải đến từ một
người thư sinh, thực chất bài thơ này đến từ một người lính ngoài sa trường,
mà trùng hợp một cái người này lại tên là Thư Sinh. Vốn bài thơ được sáng tác
khi Thư Sinh về thăm quê sau khi đi hành quân, thôn nhỏ mà Thư Sinh có dịch
nên hầu hết đã qua đời, những người sống sót còn lại đành phải qua một thôn
khác sinh sống, mà khi Thư Sinh quay trở lại thì người con gái cùng hắn hẹn
ước năm xưa đã đi lấy chồng, vừa hay hắn về đúng ngay đêm nàng lên kiệu hoa.
Sau khi biết nhà mình không còn, nơi mình từng quen thuộc trở nên lạ lẫm, hắn
đã viết ra bài thơ này, sau đó xung trận ra tiền tuyến. Mà không lâu sau đó
cũng anh dũng hy sinh ở Đại Đồn Hải Dương”
Giọng nói nhẹ nhàng thanh thoát của Văn Nhã lại vang lên. Tức thì bên dưới
vang lên tiếng nghị luận nho nhỏ của khách tham gia, hiểu rõ câu chuyện hơn
nên ý cảnh của bài thơ phần nào cũng thấm vào đầu họ. Cộng với tiếng nhạc của
Vô Ưu, không ít kẻ lâm vào trạng thái trầm tư.
Nhìn thấy tình hình như vậy, Văn Nhã không khỏi cười tự hào, để có được một
bữa tiệc hoàn hảo, họ đã phải chuẩn bị rất nhiều. Với tư cách là một người yêu
thơ chân chính, Văn Nhã tuyệt đối không cho phép kẻ khác xuất hiện những ý
nghĩ thấp kém với những bài thơ hay.
Sau đó, tiếng đàn của Vô Ưu giảm dần, mãi tới khi dứt hẳn, mới có mấy người
thở dài ra. Mới chỉ có bài thơ đầu tiên đã mang cho họ rung động thế này,
không biết những bài thơ sau còn như thế nào nữa, việc này rất đáng chờ mong.